image banner
    
Lịch sử truyền thống cách mạng Đảng bộ và Nhân dân xã Vĩnh Đại (Giai đoạn 1954 - 2010)

Chương mở đầu

VÀI NÉT VỀ ĐẤT VÀ NGƯỜI

VĨNH ĐẠI

I.    SỰ THAY ĐỔI HÀNH CHÍNH QUA CÁC THỜI KỲ

Xã Vĩnh Đại được thành lập vào tháng 10 năm 1962, nằm ở phía đông của huyện, cách trung tâm huyện Tân Hưng 18 km, là một trong 12 xã, thị trấn thuộc huyện Tân Hưng, tỉnh Long An. Vĩnh Đại là xã vùng sâu có địa giới hành chính như sau:

-  Phía Đông giáp xã Tuyên Bình, huyện Vĩnh Hưng- tỉnh Long An và xã Thạnh Hưng, TX Kiến Tường, tỉnh Long An

-  Phía Tây giáp xã Vĩnh Lợi và xã Vĩnh Châu A, huyện Tân Hưng- tỉnh Long An.

-  Phía Bắc giáp xã Tuyên Bình Tây, huyện Vĩnh Hưng – tỉnh Long An.

- Phía Nam giáp xã Vĩnh Bửu, huyện Tân Hưng, tỉnh Long An.

Xã Vĩnh Đại có 3.964 hécta diện tích tự nhiên. Trong đó đất nông nghiệp chiếm 1.656 hécta; đất lâm nghiệp 1.986 hécta; còn lại đất nuôi thủy sản, đất chuyên dùng, đất ở nông thôn. Dân số 4.701 nhân khẩu (có 1056); trong đó nam 2.403 nhân khẩu, nữ 2.298 nhân khẩu. Xã chia làm 4 ấp, có tên gọi như sau:

1.                      Ấp Vĩnh Bửu (tên liệt sĩ)

2.                      Ấp Cà Dăm (lấy tên từ cây Cà Dăm)

3.                      Ấp Vĩnh Ân (tên liệt sĩ)

4.                      Ấp Láng Sen

Trước đây, xã Vĩnh Đại thuộc làng Vĩnh Lợi vùng 8 tỉnh Kiến Tường. Trong Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xã Vĩnh Đại thuộc xã Vĩnh Lợi. Xã Vĩnh Đại được thành lập trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Sau năm 1975 xã Vĩnh Đại thuộc huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An. Từ năm 1994 đến nay xã Vĩnh Đại thuộc huyện Tân Hưng, tỉnh Long An.

Ngày 22 tháng 7 năm 1873, thống đốc Nam Kỳ cho chuyển 8 thôn từ tổng Hưng Long về tổng Mộc Hóa, cho thuận tiện việc liên lạc và cai trị, 8 thôn đó là: Vĩnh Lợi, Hưng Nguyên, Thủy Đông, Tuyên Thanh, Vĩnh Thạnh, trường Thanh, Tân Lập, Hưng Điền. Cả 2 tổng cùng ở trong hạt Tân An. Như vậy kể từ năm 1873 làng Vĩnh Lợi đã được xuất hiện, Vĩnh Lợi trở thành đơn vị hành chính thời đó. Thời điểm này xã Vĩnh Đại thuộc làng Vĩnh Lợi.

Năm 1916, quận mộc Hóa được thành lâp. Trực thuộc tỉnh Tân An, bao gồm toàn bộ diện tích của huyện Thạnh Hóa, Tân Thạnh, Mộc Hóa, Vĩnh Hưng, Tân Hưng ngày nay. Năm 1940, đơn vị hành chínhcủa tỉnh Tân An gồm có 3 quận, 10 tổng,62 làng. Xã Vĩnh Đại ngày nay thuộc xã Vĩnh Lợi thuộc tổng Thạnh Hòa Thượng, quận Mộc Hóa, tỉnh Tân An.

Tháng 7 năm 1957, để đối phó kịp thời âm mưu địch, và ddể tiện cho việc chỉ đạo sát đúng với thực tế tình hình địa phương. Về phía cách mạng, tách Mộc Hóa ra khỏi tỉnh Tân An, lập một đơn vị hành chánh cấp tỉnh và cũng lấy tên là Kiến Tường, nhưng bên dưới không chia thành quận (như của địch) mà chia thành vùng. Chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến cũng như quản lý về mặt xã hội ở mỗi vùng có một Bản cán sự vùng. Tỉnh Kiến Tường gồm có các vùng sau:

+ Vùng 2 (tương ứng với quận Châu Thành)

+ Vùng 4 (tương ứng với quận Kiến Bình)

+ Vùng 6 (tương ứng với quận Tuyên Nhơn)

+ Vùng 8 (tương ứng với quận Tuyên Bình).

Như vậy, trong kháng chiến chống Mỹ xã Vĩnh Đại thuộc vùng 8 (phía cách mạng), thuộc quận Tuyên Bình (phía địch).

Tháng 10 năm 1962 xã Vĩnh Đại được thành lập gồm có 02 ấp: đó là ấp Vĩnh Ân (tên liệt sĩ Lê Văn Ân) đã hi sinh trước đó và ấp Vàm Gừa (thuộc xã Tuyên Thạnh huyện mộc Hóa).

Sau năm 1975, xã Vĩnh Đại có 02 ấp đó là ấp Vĩnh Ân và ấp Vĩnh Bửu (tên liệt sĩ).

Ngày 30 tháng 3 năm 1978, chia huyện Mộc Hóa thuộc tỉnh Long An thành 2 huyện tên là huyện Mộc Hóa và huyện Vĩnh Hưng thuộc tỉnh Long An. Huyện Vĩnh Hưng gồm các xã sau: Hưng Điền A, Hưng Điền B, Thái trị, Thái Bình Trung, Vĩnh Châu A, Vĩnh Châu b, Vĩnh Đại, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Lợi và Vĩnh Trị (theo Quyết định số 71/CP của HĐBT).

Ngày 24 tháng 3 năm 1994, tách các xã Vĩnh Thạnh, Vĩnh Lợi, Vĩnh Đại, Hưng Điền B, Hưng Thạnh, Vĩnh ChâuA, Vĩnh Châu B, Thạnh Hưng, Hưng Hà, Hưng Điền và thịtrấn Tân Hưng của huyện Vĩnh Hưng để thành lập huyệnTâ Hưng. Sau khi điều chỉnh địa giới, huyện Tân Hưng có 52.437 hécta diện tích tự nhiên với 30.850 nhân khẩu (theo Nghị định số 27/CP của Chính phủ). Như vậy từ ngày 24 tháng 3 năm 1994, xã Vĩnh Đại thuộc huyện Tân Hưng xã có 6 ấp: Vĩnh Bửu, Vĩnh Ân, Láng Sen, Vàm Gừa, ấp 4, ấp 5.

Ngày 15 tháng 3 năm 2003 thực hiện Nghị định 50 của Thủ tướng Chính phủ xã Vĩnh Đại tách ra thành 02 xã lấy tên là xã Vĩnh Đại và xã Vĩnh Bửu. Sau khi phân vạchđiều chỉnh địa giới xã Vĩnh Đại gồm các ấp sau: Vĩnh Bửu, Cà Dăm, Vĩnh Ân, Ấp Vĩnh Ấn (tức là liệt sĩ Lê Văn Ân, quê quán ở xã Vĩnh Đại, ông là huyện uỷ viên Mộc Hóa), về Vĩnh Đại dạy lớp chính trị cho một số cán bộ vào mùa nước lũ, bị thuyền bay của địch bắt đem về tỉnh Kiến Tường tra tấn dã man nhưng không khai báo. Ngày16/9/1961 bọn địch đã sỏ nhượng ông và neo đá thả xuống cầu Mộc Hoá hiện nay. Láng Sen, Cả Sậy. Từ đó đến nay không thay đổi.

II. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ VÀ DÂN CƯ, XÃ HỘI.

Do đặc điểm tự nhiên nghề nghiệp chủ yếu của nhân dân Vĩnh Đại là đánh bắt cá. Trong hai cuộc kháng chiếnchống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Những người dân VĩnhĐại hôm nay đều không thể nào quên, chính mảnh đất nầy đã từng là một chiến trường ác liệt, nhiều con em của Vĩnh Đại đã hy sinh để góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc. Bởi lẽ, trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, hoạt động của an ninh vũ trang và lực lượng quân sự không tách rời mà quyện chặt với nhau là một trong đó nhiệm vụ diệt ác, phá kiềm, bảo vệ cơ quan, nhân dân và cán bộ, chống tề điệp là nhiệmvụ chủ yếu của lực lượng an ninh trong giai đoạn nầy.

Về giáo dục, trong thời kỳ kháng chiến việc dạy học ởxã Vĩnh Đại không được quan tâm phát triển do chiến tranh. Năm 1955-1956 mở một điểm trường dạy học ở đất của ông Ngô Văn Thân, thuộc ấp Láng Sen, chỉ có một thầy giáo Ấn dạy với 03 lớp học. Đến năm 1960 điểm trường này không còn nữa.

Năm 1961, tổ chức một điểm dạy học với 02 lớp và được duy trì đến 1962. Đến năm 1963, mở một điểm trường bằng tre lá do nhân dân xây dựng tại Trấp Ngang (nay là ấp Cà Dâm) có 02 lớp học khoảng 30 học sinh. Năm 1964, điểm trường này bị cháy, do đó phải đưa học sinh xuống công sự học nhằm tránh bom, đạn chiến tranh. Từ 1965 đến1975 phong trào dạy học lắng xuống, không còn một điểm dạy học nào trên địa bàn xã, do địch gom dân vào ấp chiến lược và khu trù mật.

 Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), công tác giáo dục được Đảng, Nhà nước quan tâm, mạnglưới trường lớp được mở ở các ấp trên địa bàn xã. Năm 1976 thành lập điểm trường đầu tiên tại Cả Sậy do ông NguyễnVăn Hiền (Ba Hiền) được chi uỷ xã Vĩnh Đại phân công vậnđộng nhân dân chở đất đắp nền làm trường học dạy từ lớp 1đến lớp 8. Từ năm 1976 -1979, có 05 điểm trường được thành lập, 01 điểm trường chính (điểm uỷ ban) và 04 điểm trường phụ: Vàm Gừa (ấp Vàm Gừa), Cà Dăm (ấp Láng Sen), kênh 61 (ấp Vĩnh Ân), Cua Quẹo (ấp Vàm Gừa). Tên trường là Trường phổ thông cơ sở Vĩnh Đại, tổ chức giảng dạy từ mẫu giáo đến lớp 8, nhưng lớp mẫu giáo chỉ duy trì được vài ba năm, do thiếu thốn về cơ sở vật chất, nhu cầu của nhân dân thời điểm đó chưa cần thiết. Học sinh lên lớp 9 phải đi về thị trấn Vĩnh Hưng để học, điều kiện đi lại rất khó khăn, chủ yếu đi bằng xuồng ghe.

Đến năm 1980 tiếp tục mở thêm 02 điểm trường tại Kênh 61 và Kênh 79 thuộc ấp Vĩnh An, do địa bàn rộng nên 01 ấp có nhiều điểm trường. Năm 1983 xây dựng thêm 01điểm trường Kênh 79. Hầu hết các điểm trường bằng tre, lá do Nhà nước và nhân dân đóng góp xây dựng. Năm 1987, điểm trường chính được Đảng, Nhà nước quan tâm đầu tư xây dựng kiên cố bằng bêtông cốt thép. Từ thời điểm này phong trào giáo dục trên địa bàn xã phát triển rất mạnh, số lượng học sinh tăng lên rất nhiều, toàn trường có trên 700 học sinh và đã giảng dạy đến lớp 9.

Từ tháng 7 năm 2002, trường phổ thông cơ sở Vĩnh Đại được tách ra làm 02 trường: trường Trung học cơ sở Vĩnh Đại và trường Tiểu học Vĩnh Đại. Hiện nay (2009), trường Trung học cơ sở Vĩnh Đại có 08 khối lớp từ lớp 6 đếnlớp 9, có 252 học sinh. Trường Tiểu học Vĩnh Đại có 21 lớp (04 lớp mẫu giáo và 17 lớp tiểu học), với 486 học sinh. Hệ thống trường lớp được Đảng, Nhà nước đầu tư xây dựng khang trang, các thiết bị dạy và học được trang bị khá đầy đủ, nhất là đội ngũ giáo viên được nâng cao về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, áp dụng công nghệ thông tin vào công tác giảng dạy ngày càng nâng cao chất lượng giáo dục.

Về giao thông, hiện nay (năm 2009) trên địa bàn xã có nhiều kênh rạch, gồm các tuyến kênh chính như: kênh 79,kênh 30/4, kênh 1/5, kênh 1/6, kênh 22/12, kênh ĐồngVàng, kênh Tràm Gò, kênh Gáo Xanh, kênh Đòn Dong, kênh Cả Sậy, kênh Cả Cạy, kênh Ngang (còn gọi là kênh Kháng Chiến) kênh 61, kênh 62, kênh 63, kênh Cả Bát, kênh Bảy Hò, kênh Năm Quế, kênh Bảy Dũng, kênh Tập Đoàn I, kênh Sáu Bô, Ngọn Cả He là ranh giới 2 xã Vĩnh Lợi vàVĩnh Đại, đây là khu vực nằm trong khu bảo tồn đất ngập nước Láng Sen. Hầu hết các kênh đào vào những ngày lễ, kỷ niệm hay năm đào đặt tên cho các con kênh. Nhìn chung, toàn xã về đường giao thông thủy bộ đi lại còn khó khăn, xã có những cầu lớn, đó là: kênh tập đoànI, cầu Cả Sậy, cầu kênh Cả Cạy, cầu Kênh 61... Đường bộ chủ yếu nhân dân đi lại là tuyến đường 79. Ngoài ra, còn có các tuyến đường nhỏ khác và các rạch để đi vào các ấp cũng không thuận lợi cho lắm. Đường thủy dùng vận chuyển đi lại bằng ghe lớn, các kênh rạch còn lại di ghe, xuồng nội bộtrong xã và các xã lân cận.

Mùa lũ hàng năm thường vào đầu tháng 9 hoặc sớm hơn, mực nước lên mỗi ngày từ 02 đến 04 phân và lần lượt ngập trên địa bàn xã, mực nước cao nhất vào đầu tháng 10 ở vùng đất thấp bị ngập từ 1m50 đến 2m, có nhiều lô ruộng bị ngập từ 1m20 đến 2m30, rồi nước bắt đầu rút mỗi ngày từ 01 đến 04 phân nước khỏi ruộng vào cuối tháng 12. Tuy nhiên, những nơi ruộng thấp, mực nước vẫn còn từ 01 đến 04 tấc. 

Khí hậu, xã Vĩnh Đại cũng giống như các xã trong huyện Tân Hưng thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, ít gió bão, ít có mùa đông lạnh, rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Nhiệt độ trung bình năm là 27,3°C, nhiệt độ thấp nhất là 20°C, cao nhất là 37°C. Mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5. Trong 3 tháng 6, 7, 8 trời mưa đều cho đến cuối tháng 9, những ngày mưa thường xen kẽ với những ngày nắng gắt, mùa mưa thường kết thúc vào tháng 11 trong năm. Kể từ đó, mưa rất thưa thớt trong ít ngày và chấm dứt vào cuối tháng 11 hoặc đầu tháng 12. 

Thời tiết, trong tháng 01, gió bấc (thổi từ hướng Bắc và Đông Bắc) thường nhẹ nhàng mát mẻ. Ngọn gió này có khi kéo dài đến tháng 03 nhưng trong 02 tháng sau thường có gió chướng (Đông Nam) tiếp tục thổi đến tháng 05. Từ tháng này đến tháng 9 có gió nồm (Nam và Tây Nam). Trong tháng 9 hoặc tháng 10 gió chướng thổi trở lại và thường đến cuối tháng 11, sau đó có gió bấc đến tháng 2 năm sau. 

Trong kháng chiến cuộc sống người dân trên địa bàn xã chủ yếu sống bằng nghề bắt cá như lọp lờ, câu lưới... 

Ngoài nghề cá, hàng năm đến tháng 10 âm lịch là đi đập lúa ma (còn gọi là lúa trời) về giã ra lấy gạo để ăn. Các loài vật của thiên nhiên ưu đãi như chim cò, trích, quốc, rắn, trăn, rùa, cua đinh, cua đồng và nhiều loài động vật hoang dã
khác...., phải nói là nhiều vô tận không sao kể hết. Còn lương thực như lúa gạchỗ khác đem lại bán, cuộc sống của nhân dân phải nói là luôn luôn giúp đỡ và ủng hộ với cách mạng. Chính quyền cách mạng chủ trì lãnh đạo xáo canh địa bàu đem chia cho nông dân, gọi là tam cấp. Chi bộ chủ trương cho nông dân khai khẩn đất đai hoang du, cho mỗi hộ khai khẩn 100 ngang, 1.000 dọc từng bước trồng cây gây rừng tạo địa hình cũng là nhằm phục vụ cho kháng chiến. Tuy cuộc sống của nhân dân nơi đây vô cùng khổ cực nhưng một lòng đi theo Đảng, theo cách mạng.

Trong hiện tại, nông-lâm-ngư nghiệp vẫn là ngành kinh tế quan trọng hàng đầu ở Vĩnh Đại. Mặc dù các điều kiện về tự nhiên kinh tế, giao thông còn khó khăn nhưng tương lai không xa với sự đầu tư và phát triển như hiện nay, Vĩnh Đại có đủ điều kiện và còn vươn xa hơn nữa để phát triển kinh tế - xã hội trong thế kỷ XXI.

Về nghề truyền thống, Vĩnh Đại có nhiều nghề truyền thống tồn tại trong một thời gian dài nuôi sống nhân dân trong bao nhiêu năm đó là ngành nghề thủ công như: nghề đặt lờ, nghề đặt ống trúm, nghề chất chà, đặt lọp, nghề đặt xà di, nghề đặt bung, nghề trồng lúa và thu hoạch lúa ma (lúa trời), nghề trồng tràm, làm củi ... đã tồn tại rất lâu và nuôi sống người dân, hiện nay các ngành nghề trên vẫn còn nhưng với quy mô nhỏ.

- Nghề đặt lọp, đặt lờ: Lọp là dụng cụ đặt cá phổ biến trên cánh đồng, có hai cách đặt lọp. Cách thứ nhất là đặt lọplủi tức vén cỏ, đặt lọp xuống để lú đáy lọp lên cho cá vào không bị chết. Cách thứ hai là đặt lọp có ven đăng (đăng làmbằng tre hoặc sậy dài khoảng 4 m, thân tròn nhỏ, sau đó dùng dây chạy bện lại thành từng tấm dài), người ta thường cắm một hàng đăng dài 4 đến 5m đặt một cái lọp), lọp thường đặt bắt cá lóc, tôm, rắn, rùa, ... Còn đặt lờ thường đặt ở luồng nước chảy, trên cánh đồng ngập nước, lờ bánh ú thường bắt cá rô, cá sặt...

- Nghề đặt xà di: là dụng cụ chuyên bắt cá rô, khi đặt xà di người ta móc một lỗ hoặc lấy gót chân ấn lỗ xuống đất, bỏ lúa vào lỗ rồi đặt xà di dựng đứng trên lỗ, khi cá rô vào ăn lúa xong, lên ngóp sẽ chui vào hom xà di, xà di được bện bằng kẽm hoặc dây đồng.

- Nghề đặt trúm: là dụng cụ bắt lươn, trúm thường đặt vào đầu mùa nước nổi hoặc mùa tát đìa. Đặt trúm người dân sử dụng mồi cá nấu hoặc trùn băm nhồi với bùn đất, vo thành cục tròn, sao cho dẻo thấm nước, tan dần, ống trúm chở bằng
xuồng và phải đặt hết trúm trước khi trời tối..

- Nghề giăng câu, giăng lưới. Nghề đặt bung bắt cá trê…

- Nghề chất chà, khi nước nổi kết thúc, người ta thường chất chà thành hình chữ nhật hoặc hình vuông, to, nhỏ khác nhau tuỳ nơi. Khi nước vừa đứng, người ta dùng lưới bao quanh đóng chà lại, đem những nhánh chà ra, gom đăng hay lưới thành diện tích nhỏ và dùng vợt xúc cá đổ lênxuồng, chất chà là nguồn thu hoạch cá khá lớn ở xã Vĩnh Đại. Chính với phương thức hoạt động kinh tế độc đáo này mà mặc dù tồn tại trên một vùng đất được khai phá chậm vàmật độ dân số thưa thớt mức gần như hoang vu, nó vẫnkhông bị cô lập với đời sống kinh tế-xã hội.

Ngày nay, chỉ còn một số nghề còn tồn tại như: ủ nước mắm, giăng lưới, nghề chất chà, nghề đặt trúm, xà di...nhưng không nhiều trong các hộ dân vì lượng cá bây giờ ngày càng ít đi. Ngoài nghề đánh bắt cá, người dân còn đánh bắt chim muông như: gác cu, bắt trích... cũng đem lại thu nhập đáng kể cho người dân. Chúng ta càng phải trân trọng, giữ gìn những ngành nghề đã góp phần nuôi sống bao thế hệ.

Trải qua bao biến cuộc, sinh hoạt của nhân dân Vĩnh Đại thường bị xáo trộn dưới chế độ của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhưng phong tục tập quán từ ngàn xưa của nhân dân Vĩnh Đại đến nay vẫn được nhân dân duy trì và tôn trọng.
Về dân tộc, hầu hết nhân dân trong xã đều là dân tộc Kinh, sinh sống chủ yếu theo các tuyến sông rạch và kinh thủy lợi, lộ giao thông. Toàn xã không có chùa chiền, đa số dân thờ cúng ông bà, thờ thần tài, thổ địa đất đai... theo tập tục truyền thống.

Vĩnh Đại là vùng đất được khai phá muộn hơn so với với các xã lân cận như: Vĩnh Thạnh, Vĩnh Lợi, Hưng Điền...nhưng Vĩnh Đại cũng có những trang sử rất vẻ vang. Trong ký ức những cụ già 70, 80 tuổi hiện nay còn đang sống vẫn in
đậm nét hình ảnh của những lớp người đầu tiên đến lập nghiệp, trên các gò cao, họ đã phải chống chọi với muỗi, rắnđộc, trăn, khỉ. “muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh như bánh canh” để tạo nên cuộc sống giữa nơi đầm lầy heo hút này, cuộc sống chinh phục thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Đất đai Vĩnh Đại mênh mông nhưng đều có chủ. Bọn cường hào, địa chủ, quan lại có thế lực, phong kiến lẫn thực dân, thị nhau bao chiếm vùng đất hoang hoá này, mỗi tên một khoảng giang sơn hàng ngàn hécta. Không chỉ có quyền lợi về ruộng đất, mà chúng còn chiếm cả đìa, bàu, rừng tràm, đồng bàng, chim trời, cá nước, đến cả con rùa, con rắn, con; đều là gia sản riêng của chúng. Con cá bắt dưới rạch, lít mật lấy nơi rừng tràm đem ra khỏi “lãnh địa” của chúng đều phải chịu tô, chịu thuế (theo Địa chí Long An, trang 53).

Tuy nhiên, những trang lịch sử đấu tranh sôi độngnhất, kiên cường nhất của nhân dân Vĩnh Đại phải kể từ khi Đồng Tháp Mười trở thành căn cứ địa của kháng chiến thần thánh của dân tộc ta kéo dài suốt 30 năm chống lại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.

Cách mạng thực sự đổi đời người nông dân Đồng Tháp Mười, họ đã làm chủ mảnh ruộng, khẩu đìa, vườn tràm, con rạch của mình, không còn nạn thu tô, thu thuế thân, không còn cường hào, địa chủ ức hiếp, cướp đoạt. Một quan hệ xã hội mới, một nếp sống văn hóa mới trong vùngdo chính quyền cách mạng quản lý được hình thành. Cách mạng đã thực sự làm đổi đời người nông dân Vĩnh Đại. Họ làm chủ mảnh ruộng, khẩu đìa, vườn tràm, con rạch của mình, không còn nạn tô tức, cường hào, địa chủ ức hiếp, cướp đoạt. Ở đó quan hệ giữa người với người với nhau, mà thực sự là bạn bè, là đồng chí, là anh em.

Hơn 30 năm ròng rã dưới đạn bom, người dân Vĩnh Đại nói riêng, người dân Tân Hưng nói chung vẫn đứng vững, đã cùng cả nước giáng những đòn quyết định, kết thúc số phận của bọn cướp nước và bán nước ở ngay ngày 30 tháng 4 năm 1975 lịch sử.

Sau giải phóng người dân Vĩnh Đại chưa ngơi nghỉ được bao lâu thì lại bắt tay vào cuộc chiến đấu mới, không kém phần gay go quyết liệt. Chiến tranh biên giới Tây Nam, tiếp đến nạn lụt năm 1978 tàn phá hết mùa màng của người dân, người dân không còn lương thực ăn, và phải sống trong cảnh màn trời chiếu đất. Ta thấy rằng, vùng đất rộng mênh mông này không phải là nơi thiên nhiên “ưu đãi”, đối với con người, lại càng không phải đất “làm chơi ăn thiệt”.
Chinh phục được đất Vĩnh Đại là một quá trình phấn đấu vô cùng gian lao, vất vả mới có ăn, có của để.

Hệ thống chính trị ngày càng củng cố, phát triển từng bước vững mạnh, hiện nay xã có 48 đảng viên, 8 chi bộ Đảng, hệ thống chính quyền với mạng lưới từ xã xuống ấp. Các đoàn thể vững mạnh từ mấy chục hội viên nay có hơn 2.000 hội viên, cơ sở tổ, hội từ địa bàn dân cư và đang phát huy tốt tác dụng trong các phong trào quần chúng. Mạng lưới an ninh, quốc phòng thường xuyên được phát triển và
củng cố, công tác an ninh trật tự trên địa bàn xã được đảm bảo.

Phát huy truyền thống lịch sử và văn hóa của quê hương trung dũng kiên cường, với ý chí vươn lên xoá bỏ nghèo nàn lạc hậu, nhân dân Vĩnh Đại dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, huyện đã đạt được thành tích đáng tự hào. Một cuộc cách mạng mới, sâu sắc trong sản xuất nông nghiệp, thế độc canh cây lúa đã được thay bằng làm một năm/2vụ và cơ cấu cây trồng mới. Nghề rừng, nghề cá và các nghề tiểu thủ công đang hình thành và phát triển. Trường học, trạm y tế mái ngói được khang trang mọc lên trong xã và các ấp. Một số con đường giao thông đã được rải sỏi đá đỏ vào tậnvùng sâu đã làm thay đổi bộ mặt đời sống văn hoá của nhân dân trong xã Vĩnh Đại nói riêng và cả huyện Tân Hưng nói chung.

 


Chương một

VĨNH ĐẠI TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC

(1954-1975)

  I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH XÃ VĨNH ĐẠI VÀ CHI BỘ ĐẦU TIÊN XÃ ĐƯỢC THÀNH LẬP.

Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền về tay nhân dân chưa được bao lâu thì thực dân Pháp đượcđồng minh che chở đưa quân xâm chiếm nước ta một lần nữa, nhân dân ta lại tiếp tục đứng lên chống xâm lược bảo vệ độc lập dân tộc.

Trước tình cảnh đó, đời sống nhân dân rất cơ cực gian nan, nhưng một lòng đi theo cách mạng và rất tin tưởng vào sự lãnh đạo của Bác Hồ, của Đảng, của chính quyền cách mạng địa phương. Người người hăng hái tham gia vào các tổ chức đoàn thể như: Nông hội, Thanh niên, Phụ nữ, bà mẹ già cũng vào hội mẹ, hội chị đỡ đầu giúp đỡ cho bộ đội quyết tâm đánh giặc ngoại xâm. Ngoài ra còn vận động Hội đóng góp vào hũ gạo nuôi quân, thanh niên trai tráng vào lựclượng dân công tiếp lương tải đạn, tình nguyện vào du kích xây dựng xã, bảo vệ xóm làng, bảo vệ vùng căn cứ cách mạng kháng chiến.

Dân cư thưa thớt sinh sống bằng nghề đặt lọp, lờ, câu lưới khai thác cá từ thiên nhiên, bán cá đồng cho vùng khác hoặc làm khô, mắm đổi gạo, thóc và các loại hàng hóa khác, chưa có đường bộ, không có trường học, giao lưu đi lại khổ khăn, kinh tế chậm phát triển. Thực dân Pháp chưa chútrọng khai thác đến vùng này vì điều kiện đi lại khó khăn, không có nguồn thu như lúa gạo, hay các loại đặc sản nào khác, dân trí chưa phát triển, chưa thấy được mình là dân một nước nô lệ, chưa được độc lập, tự do...

Năm 1945, ranh giới từ xã tuyên Bình (ngã ba Cả Rưng) đến miễu Thiết (vuông ông Sáu Bảo) là khu vực ấp Láng Sen thuộc xã Vĩnh Lợi, từ miễu Thiết đến vuông ông Mười Chuyền là ấp Vàm Gừa thuộc xã Tuyên Thạnh, huyện Mộc Hoá. Dân cư sống tạm rất thưa thớt, sống bằng nghề giăng câu, đặt lọp trong mùa nước nổi khoảng chừng 10 – 15 hộ. Tuy nhiên cuộc sống như vậy nhưng cũng không ổn định vì thường xuyên bị địch ruồng bố, đốt nhà. Vì vậy phải
rày đây mai đó.

Đến những năm 1947 - 1948 tiếp tục có một số hộ ở Tuyên Thạnh lên lập nghiệp và đồng thời tránh tai mắt củađịch như: hộ ông Ba Son, Mười Nhường, Ba Oanh, Hai Mật, Ba Sơn, bà Mười Hiển cùng một số hộ từ Tuyên Bình sang ở khu vực ấp Láng Sen như hộ ông Trượng Tư Thân, Mười Hoàng v.v...

Ngoài ra đặc thù của địa phương nơi đây là vùng giải phóng. Vì vậy không có kho tàng và sân bãi của địch, duy chỉ có 01 đồn bót giáp ranh thuộc xã Tuyên Bình (ngã ba Cả Rưng). Trong khi đó đồn địch đóng ở đây cũng thường xuyên cho lính sang ruồng bố bắt bớ nhân dân đang sinhsống làm ăn ở hai khu vực ấp Láng Sen, trong những điềukiện sống khó khăn và gian khổ như vậy những nhân dânvẫn một lòng chở che cách mạng và theo cách mạng cho dùnhững lúc địch càn vào đốt nhà, không nơi ở nhưng khi địch qua rồi nhân dân lại dựng nhà tạm bợ lại để cùng chung sống với cách mạng.

Công tác đào kênh cũng được triển khai mạnh, phong trào quần chúng sôi nổi hưởng ứng. Bằng cuốc xẻng, gàuthiếc (máng) nhân dân đã kiên trì lao động đào hàng chục con kênh kháng chiến, có những con kênh dài 20 đến 30 km như kênh Ngang từ Gãy Cờ Đen đến Cả Rưng (thuộc xã Vĩnh Đại ngày nay); kênh Dân Quân từ Vĩnh Đại đi Tuyên Bình. Cũng từ các con kênh này thuận lợi cho việc đi lại, người dân từ nhiều nơi khác đến sinh sống ngày một nhiều hơn.

Cuối năm 1953, đời sống nhân dân ấp Láng Sen của Vĩnh Lợi và ấp Vàm Gừa của xã Tuyên Thạnh đã hoàn toàn đổi mới: người nghèo được chia ruộng, nông thôn không còn địa chủ, chính quyền cách mạng được xây dựng và điều hành cuộc sống mới. Quần chúng nhân dân ở nơi này suốtquá trình chống thực dân Pháp ở trong vùng kháng chiến nên được giác ngộ sớm, từ đó giáo dục con em sau này nối tiếp truyền thống đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến, thực hiện khẩu hiệu tất cả cho tiền tuyến để góp phầnđánh thắng bọn thực dân Pháp xâm lược.

Cuộc sống như vậy cứ trôi đi cho đến những năm 1954 - 1958 sau đình chiến, cư dân đến ở tương đối đông đúc, rải rác hai khu vực trên có khoảng 30-40 hộ, cuộc sống luôn gặp vất vả, khó khăn. Địch thường xuyên đốt nhà, gom dân gây ra bao cảnh đau thương tang tóc cho đồng bào cư dân sống ở đây. Đặc biệt vào tháng 05 năm 1959 địch xua quân vào càn quét, đốt nhà dồn dân ra khỏi vùng kháng chiến, lực lượng ta hay tin, ta chủ động một đại đội 59 bộ đội Tỉnh do đồng chí Lê Quang Đại làm đại đội trưởng chặn đánh địch nhưng vì lực lượng địch đông hơn, tuy có gây nhiều thiệt hại cho địch và một phần lớn dân trốn ở lại khu căn cứ nhưng ta tổn thất cũng nhiều, đồng chí Lê Quang Đại đã anh dũng hy sinh trong trận này. Tiếp đó tháng 10 năm 1959, lực lượng ta đánh bọn bảo an quận đi càn gom dân vào khu trù mật tại Kênh Ngang, lực lượng ta gồm 1 trung đội của Tiểu đoàn 504 phục kích diệt 02 tên và 01 tên bị thương, cuộc càn gom dân của địch bị gãy.

Cũng trong thời gian này, hơn 5000 đồng bào trong vùng đã xông vào các đồn bót định ở thị trấn Kiến Bình, trại Lòn, gò Nổi… đòi giải tán các “khu dinh điền”, “khu trù mật”, đòi thả chồng, con em về với gia đình. Tiếp theo các ngày sau, bộ đội, du kích và đồng bào bao vây các đồn, bót, bắn chết một tên ác ôn, buộc nhiều tên khác phải thôi việc, gần ngàn đồng bào nổi trống, mõ phá “khu dinh điền”, ra
định cư ở khu ấp Láng Sen của Vĩnh Lợi và ấp Vàm Gừa của xã Tuyên Thạnh (theo Kiến Tường Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), trang 84).

Trong lúc này dân cư đến lập nghiệp tương đối đông đúc, kinh ngang được nối liền khu ấp Láng Sen của Vĩnh Lợi và ấp Vàm Gừa của xã Tuyên Thạnh, đây là tuyến hành lang liên tục từ khu uỷ đến các tỉnh lân cận như: Kiến Phong (tỉnh Đồng Tháp), Định Tường (Mỹ Tho), Kiến Hoà (tỉnh Bến Tre), Vĩnh Long. Nơi đây còn là địa bàn hành lang nhưng đồng thời cũng là khu căn cứ du kích, là đường chuyển quân, chuyển lương thực cho các vùng lân cận và dự trữ lương thực để tiếp tế lương thực cho bộ đội chủ lực.

Tháng 10 năm 1961, đồng chí Võ Chí Bửu trên đường đi công tác bị địch phục kích đồng chí anh dũng hy sinh, tổ đảng do đồng chí phụ trách rút về hoạt động trong vùng căn cứ xã Vĩnh Đại phong trào vẫn nổ ra mạnh mẽ, hàng trăm người trong đó có lực lượng nòng cốt là đoàn thể, kéo ra Gãy Cờ Đen (ngày nay xã Trường Xuân thuộc tỉnh Đồng Tháp) đòi bồi thường nhân mạng không được ruồng bố để nhân dân sinh sống làm ăn, dẫn đầu cuộc biểu tình đòi bồi thường nhân mạng là chị Phạm Thị A (con mẹ Việt Nam anh hùng, mẹ Ân), kéo hàng trăm người đến tận chi khu Mỹ An (nay thuộc huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp).

Từ những nhận định và đánh giá đúng tầm quan trọng cũng như sự cần thiết phải thành lập xã Vĩnh Đại. Tỉnh uỷ đi đến Quyết định thành lập xã Vĩnh Đại vào tháng 10 năm1962. Tỉnh uỷ họp và công bố Quyết định (tại gò nhà ông ba Oanh) thành lập xã mới và đặt tên xã là Vĩnh Đại. Xã Vĩnh Đại được hình thành trên 02 ấp: đó là ấp Vĩnh Ân (tên liệt sĩ Lê Văn Ân) đã hy sinh trước đó và ấp Vàm Gừa thuộc xãTuyên Thạnh.

Ngay sau khi thành lập xã, chi bộ xã Vĩnh Đại cũng được thành lập do đồng chí Bảy Giảng làm Bí thư Chi bộ, đồng chí Huỳnh Văn Nâu làm phó Bí thư; đồng chí Sáu Mối Chi uỷ viên, trưởng công an; đồng chí Nguyễn Văn Đền (Tám Đền) xã đội trưởng; đảng viên gồm có các đồng chí sau: Trương Văn Xuân, Lê Văn Y, Lê Văn Cứ, Võ Văn Be.

Sau khi được thành lập chi bộ xã Vĩnh Đại, Chi bộ đã bắt tay ngay vào việc cũng cố và xây dựng phát triển lực lượng du kích xã ngày càng lớn mạnh, để đáp ứng được những yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, nhằm bảo vệ an toàn khu căn cứ đồng thời đảm bảo được thông suốt tuyến hành lang của Khu uỷ. Mặt khác, Chi bộ đã phát động nhân dân biểu tình kết hợp với dân xã Vĩnh Lợi, Tuyên Bình, xã Vĩnh Đại hơn 100 người tham gia do các bà mẹ Tư Thừa, mẹ Sáu Nhãn, mẹ Hai v.v... bao vây đồn Cả Rưng 2 ngày 1 đêm buộc chúng không được ruồng bố để dân tự do đi lại làm ăn sinh sống và sau đó vẫn thường xuyên bao vây đồn, biểu tình làm
công tác binh vận.

Đến giữa năm 1963, đồn Cả Rung rút đi, một số lính bỏ ngũ, trở về làm ăn với vợ con. Lực lượng du kích xã do đồng chí Nguyễn Văn Đền (Tám Đền) làm xã đội trưởng, đồng chí Tám Cứ làm xã đội phó, đồng chí Mười Y làm trung đội trưởng du kích. Sau khi đồn Cả Rưng rút đi, Chi bộ tiếp tục tăng cường xây dựng lực lượng đẩy mạnh công tác tuyên truyền như thành lập đội văn nghệ, y tế (gồm có các ông: Nguyễn Văn Kiệt, Tư Rong, Út Ân, Năm Sảnh, NămCò (còn gọi cò Hai Đậu) để phục vụ bộ đội và dân quân bám giữ tuyến hành lang xã Vĩnh Đại và đồng thời phục vụ xã bạn như: xã Vĩnh Lợi, Tuyên Bình, Vĩnh Châu, đến cuối năm 1965 đội văn nghệ bị phục kích trên đường đi phục vụ một số đồng chí hy sinh và còn lại tan rã, chuyển sang làm công tác khác.

II. QUÂN DÂN VĨNH ĐẠI ĐOÀN KẾT KHÁNG CHIẾN GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT” (1961-1964) VÀ “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA MỸ-NGỤY (1965-1968).

Đây là giai đoạn địch âm mưu tiến hành “Chiến tranh đặc biệt”, địch ráo riết tập trung dân lập ấp chiến lược, hòng tách dân ra khỏi vùng giải phóng để địch kiểm soát. Địch đã sử dụng những thủ đoạn tàn bạo như thường xuyên ruồng bố đốt nhà bắt ép đánh đập và bỏ tù những người không chịuvào ấp chiến lược. Tuy vậy, nhưng nhẫn dân xã Vĩnh Đại vẫn dũng cảm đấu tranh rất quyết liệt, hơn 2/3 dân số phá ấp chiến lược trở về vùng căn cứ sống bất hợp pháp với Mỹ - nguy. Trước tình hình đó, chi bộ xã Vĩnh Đại tập trung xây dựng lực lượng, xây dựng cơ sở và phát triển các đoàn thể, xã Vĩnh Đại xây dựng thêm 01 tiểu đội du kích, 01 trung đội dân quân đấu tranh trực diện.

Đầu năm 1963, Chi bộ đại hội và có sự thay đổi một số đồng chí tăng cường thành lập xã được rút về trên làm công tác khác. Nghị quyết chi bộ đề ra là: Nhanh chóng xây dựng lực lượng đủ mạnh để bảo vệ tuyến hành lang và khu căn cứ đồng thời làm tốt công tác tổ chức Đảng, đại hội bầu ra cấp uỷ mới gồm các đồng chí: Huỳnh Văn Nấu làm Bí thư, Huỳnh Văn Mới làm phó Bí thư (kiêm Trưởng công an), Nguyễn Văn Đền (Tám Đền) xã đội trưởng, Út Xuân -Chi uỷ viên, phụ trách Mặt trận. Đảng viên Chi bộ đã tăng thêm về số lượng được 10 đồng chí. Trước những đàn áp của Mỹ-nguy chi bộ có nghị quyết, nhanh chóng mở rộng vùng căn cứ chủ động đưa cán bộ vào hoạt động bí mật trong ấp chiến lược, tổ chức xây dựng đoàn thể ngay trong lòng địch, kiểm soát qua một thời gian ta xây dựng một tổ chức đảng hoạt động bí mật gồm các đồng chí: Đoàn Vĩnh (Ba Động), Võ Chí Bửu cán sự Đảng phụ trách lãnh đạo.

Tháng 7 năm 1964, Hội nghị Tỉnh uỷ (mở rộng) ở kinh Ngang (xã Vĩnh Đại) đã đánh giá: ở chiến trường Kiến Tường vùng căn cứ đã mở rộng, hầu hết nông thôn được giải phóng; lực lượng vũ trang tỉnh đủ sức phá các cuộc càn quét của địch trong phạm vi tỉnh; bọn bảo an, dân vệ, tề, điệp đều co vào đồn bót, thế kìm kẹp của địch lỏng; ta đã làm chủ về ban đêm các vùng thị trấn và các khu vực gần đồn bót... ta đã lớn mạnh về nhiều mặt, nhưng chưa đủ sức giải phóng hoàn toàn tỉnh nhà. Từ đó Tỉnh uỷ đề ra chủ trương: tích cực nắm dân ở các vùng yếu, ra sức giành dân, nắm giữ thanh niên, các lực lượng vũ trang tích cực tiến công tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, tập cách đánh đồn, bót; phát động phong trào bắn máy bay địch rộng rãi trong du kích và nhẫn dân để giữ chân và hạn chế thiệt hại cho dân. (Theo Kiến Tường Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), trang 84). Lực lượng an ninh xã Vĩnh Đại, Vĩnh Lợi đã cùng các xã bạn đã bảo vệ thành công Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng được tổ chức ở Kênh Ngang (xã Vĩnh Đại). Thực hiện chủ trương trên, lực lượng chủ lực của Tỉnh phục kích
đánh trên sông Vàm Cỏ Tây. Lực lượng xã Vĩnh Lợi đã kết hợp với lực lượng các xã Vĩnh Đại và Tuyên Bình bao vây đồn Cả Rưng. Sau hàng loạt các trận đánh phối hợp của ta, một số đồn bót buộc phải co lại. Chúng rút về tập trung giữ quận lỵ Tuyên Bình. Tuyến hành lang dọc theo biên giới từ Hưng Điền qua Vĩnh Lợi đến Vĩnh Đại được thông suốt. Chi bộ Vĩnh Đại chỉ đạo các lực lượng đoàn thể, chính quyền, công an, xã đội, nông hội, phụ nữ, thanh niên trong xã phối hợp, vận động nhân dân đánh địch, làm công tác binh địch vận. Địch dùng máy bay rải thuốc khai hoang tàn phá mùa màng, cây cối làm cho rừng cây trụi lá, xơ xác hoang tàn để lực lượng, cơ sở cách mạng không còn chỗ trú ẩn, địch dễ phát hiện đánh phá ta. Địch tấn công ta chủ yếu vào mùa khô bằng hành quân xe tăng, pháo kích và qua mật báo chỉ điểm. Mùa lũ địch đánh bằng thuyền bay, chúng gom dân lập ấp, đốt nhà bắt người vào khu trù mật. Cán bộ chính trị tổ chức nhiều mũi bám dân ở các khu ấp chiến lược mà địch gom vào để kềm kẹp không cho quần chúng liên lạc với cách mạng. Để tổ chức cơ sở bí mật, vận động quần chúng tiếp tế lương thực cho cách mạng và cung cấp tin tức cho ta, nắm bọn do thám gián điệp chúng thả giả dạng làm ăn vào vùng giải phóng chỉ điểm để chúng bắn phá hoặc đổ quân đánh phá cơ sở cách mạng. Trong lúc này xã Vĩnh Đại không có đồn bót của địch coi như vùng căn cứ, nhiều đơn vị của khucủa miền đi xuống chiến trường đều nghỉ chân ở xã Vĩnh Đại như giao liên của Tỉnh, của Khu, đơn vị X16 vận chuyển vũ khí xuống chiến trường cũng đóng chốt ở Vĩnh Đại. Hành lang dọc theo biên giới từ xã Hưng Điền đến xã Vĩnh Đại được thông suốt.

Về phía căn cứ cách mạng ở Vĩnh Đại, Chi bộ chỉ đạo tập hợp dân quân du kích mưu trí đào kinh để làm chướngngại vật như đào kinh 61, kinh 62, kinh 63 nhằm ngăn chặn xe tăng Mỹ - ngụy đi càn quét vào căn cứ cách mạng đóng trên địa bàn xã. Mặt khác, dân quân du kích xã dẫn đường vận chuyển tiếp tế, những tuyến kinh này do sự đóng góp của quần chúng nhân dân địa phương bạn như Tuyên Thạnh, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu chủ yếu đào vào ban đêm để tránh máy bay và sự ruồng bố của Mỹ - nguỵ.

Tháng 7 năm 1963, Chi bộ xã Vĩnh Đại được củng cố và tăng cường, Chi bộ có sự thay đổi, đồng chí Huỳnh Văn (Tám Đền) làm phó Bí thư, đồng chí Tám Cứ - Trưởng côngNâu được chỉ định làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Đền an, đồng chí Bảy Khuyên - xã đội trưởng.

Tháng 8 năm 1963, địch mở đợt càn quét khu vực xã Tuyên Thạnh Chi bộ xã Tuyên Thạnh tạm lần về vùng căn cứ xã Vĩnh Đại để hoạt động, tránh tổn thất đến mùa nước rút, Chi bộ xã Tuyên Thạnh trở về xã nhà hoạt động, lãnh đạo lực lượng chiến đấu nhưng đang gặp khó khăn, đó là tên Hội - Tiểu đội trưởng du kích ra chiêu hồi địch, quay trở lại chỉ điểm đánh phá ta rất ác liệt, được sự hỗ trợ của du kích xã Tuyên Thạnh, du kích xã Vĩnh Đại chặn đánh bọn lính biệt
kích do tên Hội chỉ điểm gây cho chúng bị thương vong 13 tên. Trong trận này ta tiêu diệt tên Hội tại nhà, tên Hội chết bọn bảo ăn và biệt kích hoang mang lo sợ và mất phương hướng, hạn chế không còn lùng sục như trước. Chi bộ Tuyển
Thạnh nhanh chóng xây dựng lực lượng và bám giữ địa phương căn cứ. Chi bộ chủ trương thường xuyên tập kích đánh địch từ xa kết hợp lực lượng xã bạn bao vây đánh đồn Tân Thành mùa nước năm 1963, đánh đồn Chùa Nổi, đồn Cả Rưng thuộc xã Tuyên Bình đánh chiếm giữ đồn Dinh Điền xã Vĩnh Châu A, đánh tiêu diệt đồn Mỹ Hổ, xã Mỹ Hoà (huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp ngày nay).

Mục đích của ta là buộc địch co cụm lại hạn chế việc càn quét ruồng bố ráp của địch, căn cứ, cơ sở cách mạng của ta đảm bảo an toàn, tích cực bí mật xây dựng kho chứa lương thực lấy tên kho I ở vuông đất ông Khiêm, kho II ở vuông ông Bảy Chum, kho III ở khu Kênh 61 và một trạm quân y, một công binh xưởng ở lò gạch Kênh 61. Ngoài ra để đảm bảo việc liên lạc với các tổ chức trong ấp chiến lược và đi lại công khai tránh tai mắt địch, Chi bộ xã Vĩnh Đại và Mặt trận
xã chủ động tịch thu kinh đìa của những tên địa chủ, Hội đồng bỏ chạy theo địch, cấp lại cho những hộ cơ sở cách mạng của ta và những hộ nghèo giác ngộ cách mạng không có kinh, đìa nhằm để tạo mối liên lạc và nắm tình hình của địch, đồng thời tạo điều kiện vận chuyển thuốc men, vải, lương thực cho du kích dự trữ đánh địch, đảm bảo cuộc sống gia đình đang bị Mỹ - nguy gây khó khăn trong ấp chiến lược. Chi bộ xã Vĩnh Đại tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh việc trồng cây gây rừng, tạo địa hình địa vật để quân du kích hoạt động ngăn chặn việc càn quét của địch, đảm bảo an toàn khu căn cứ, cùng các cơ quan trong địa bàn xã Vĩnh Đại và đặc biệt bảo vệ an toàn tuyến liên tục với các vùng đồng bằng sông Cửu Long và tỉnh lân cận.

Năm 1964, địch mở rộng vùng quản lý bằng nhiều biện pháp để lấn dần khu căn cứ xã Vĩnh Đại, địch đưa 01 đại đội lính bảo an đi càn quét và đưa phương tiện máy cày đi phát quang, cấp trên chỉ thị bám giữ căn cứ và chủ động bao vây đánh địch, Chi bộ ra nghị quyết đẩy mạnh phong trào như biểu tình đòi nhân dân tự do đi lại làm ăn trong vùng căn cứ cách mạng, chống ruồng bố đốt nhà nhân dân trong vùng căn cứ... lực lượng du kích, dân quân gài bom, mìn dọc theo vành đai, chủ động bao vây đánh địch từ xa, chặn đánh đại đội lính bảo an gây thiệt hại nặng, chiếc máy cày địch dùng đi phát quang bị nổ mìn cháy tại chỗ, làm cho
chúng không thực hiện được ý đồ phát quang khu căn cứ của cây địch dùng đi phát quang bị nổ mìn cháy tại chỗ, làm chota, trên tinh thần đó Chi bộ lãnh đạo tiếp tục bám giữ và mở rộng vùng căn cứ, đảm bảo tuyến hành lang nối liền với các vùng lân cận giữa vùng 4 và Khu 8.

Tháng 6 năm 1964 do yêu câu công tác của cấp trên, đồng chí Huỳnh Văn Nâu được rút về trên, Chi bộ bầu ra cấp uỷ mới gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Đền - Bí thư; đồng chí Út Xuân - Phó Bí thư; đồng chí Nguyễn Văn Khuyên – xã đội trưởng; đảng viên gồm đồng chí Võ Văn Be và MườiY... Chi bộ chủ trương vận động những hộ dân sống trong vùng cách mạng tạm thời ra vùng an toàn sinh sống nhưng vẫn giữ vững liên lạc với cơ sở cách mạng. Lực lượng du kích xã lợi dụng thông thạo địa hình có rừng tràm rậm ta chia tổ 3 đến 4 đồng chí chặn đánh, bắn tỉa, gài trái, đào hầm chông, gây cho quân Mỹ - ngụy nhiều thiệt hại, ngoài ra khi đêm xuống ta tổ chức đánh tập kích bất ngờ bọn lính đóng đồn như đồn Thạnh Linh ở Gãy Cờ Đen, đồn Vườn Chuối ở Thạnh Lợi, đồn Kênh Thằng Tây ở Hậu Thạnh...Với quyết tâm giữ vững khu căn cứ, lực lượng ta thường xuyên tổ chức đội diệt ác, phá kìm, trừ gian đột nhập ra Thạnh Lợi tiêu diệt tên Long. Đây là tên mật vụ ác ôn chuyên dò la cơ sở của tavà gia đình có người thân đang ở trong căn cứ để bắt bớ, tù đày, mục đích của chúng là ngăn chặn, cách ly cơ sở với căn cứ. Sau khi tiêu diệt tên Long tình hình vận chuyển cũng như liên lạc tiếp tế cho khu căn cứ luôn được đảm bảo. Tuy nhiên, quân Mỹ - nguỵ trong các đợt tham gia càn quét đều có cố vấn Mỹ và sư đoàn 7 và sư đoàn 9 của Mỹ - ngụy thường xuyên về bố ráp vùng căn cứ Vĩnh Đại. Lực lượng du kích ta tổ chức đánh lẻ, phân tán, gài trái, bắn tỉa gây cho địch tiêu hao và hạn chế không để quân địch lấn sâu vào vùng căn cứ các cơ sở cách mạng của ta.

Từ những năm 1965, Mỹ - ngụy tăng cường số lượng quân ở miền Nam, kể cả quân chư hầu và quân Mỹ chưa tính quân ngụy, được trang bị vũ khí tối tân, nói chung tiềm lực quân sự của Mỹ - ngụy rất mạnh. Mùa khô chúng tổ chức những cuộc hành quân, càn quét vào vùng căn cứ của ta, thường xuyên hoạt động là sư đoàn 7, sư đoàn 9 và lính biệt kích khu Măng Đa, thám báo tỉnh Kiến Tường, đôi khi có cả xe tăng hỗ trợ, pháo từ Kiến Tường - Măng Đa - Gãy Cờ Đen chúng thi nhau bắn vào vùng căn cứ, B52 bừa dọc hai bên tuyến kinh ngang, mục đích của chúng là tách dân ra khỏi vùng căn cứ bằng mọi giá và bằng nhiều thủ đoạn khác, đạndầy đặc của Mỹ - nguỵ rải thả cày đi xới lại nhiều lần.

Tháng 12 năm 1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 12, xác định nhiệm vụ, chủ trương, phương châm, phương thức đấu tranh trong tình hình mới, huy động sức mạnh của quân dân cả nước kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.Trung ương Đảng đề ra nhiệm vụ: động viên lực lượng cả nước kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước.

Quán triệt sự chỉ đạo của trên, tỉnh uỷ Kiến Tường đã tiến hành giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, xây dựng cho Đảng bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân quyết tâm sẵn đánh Mỹ và thẳng Mỹ, đồng thời chuẩn bị các mặt về tổ chức lực lượng và hậu cần.

Tháng 2 năm 1966, địch mở nhiều cuộc hành quân từ 01 đến 02 trung đoàn càn quét vào vùng 8, địch đánh vào vùng tranh chấp giữa ta địch rất quyết liệt, nhiều cuộc hành quân đốt phá tài sản, bắn giết nhân dân khi thấy bóng người làm ruộng ở ngoài đồng, trực thăng đổ quân đánh phá sâu vào xã Vĩnh Đại (xã giải phóng) và đánh liên tục tại các xã Vĩnh Đại, Vĩnh Châu, Tuyên Bình, Hưng Điền... Ngoài ra địch còn dùng bom và bom napan, chất hóa học huỷ diệt rừng cây ở vùng 8 nhiều xã không còn 01 hecta rừng nguyên ven.

Mùa nước 1966, Thượng tướng Trần Văn Trà, nhân chuyến đi công tác có về thăm xã Vĩnh Đại. Vào mùa lũ lớn, đồng trống nước dâng cao, vùng căn cứ cơ sở cách mạng của ta gặp khó khăn, Chi bộ chỉ đạo một bộ phận rút về vùng cao giáp biên giới CampuChia, một bộ phận còn lại tiếp tục bám giữ căn cứ chờ nước rút tiếp tục hoạt động. Nhưng ngay trong mùa nước nỗi, địch đưa phương tiện thuyền bay vào căn cứ của ta chúng gọi là tiêu diệt, gây ra cho ta nhiều thiệt hại một số đồng chí đã hy sinh. Mỹ - nguỵ mới đưa phương tiện tối tân vào vùng đồng bằng, thuyền bay của Mỹ cơ động rất nhanh, hoạt động trên mặt nước, ngọn cỏ và ngoài đồng trống gây cho ta nhiều khó. Qua thời gian nghiên cứu, Chi bộ đã đưa ra cách đánh trả, không phải lẩn tránh, ta chủ độngđối đầu. Đó là dùng lựu đạn kẹp vào cây, gài trên mặt nước, cách chặn đánh này rất hiệu quả. Tháng 9 năm 1966, đồng chí Việt xã đội trưởng cùng lực lượng du kích gài lựu đạnchặn đánh thuyền bay tại vuông ông Tư Hên làm cháy tại chỗ một chiếc thuyền bay, 3 tên địch chết, bị hư hai chiếc. Từ đây cách đánh thuyền bay của địch có hiệu quả, ta bắt đầu nhân rộng ra các địa phương khác như Vĩnh Châu, Vĩnh Lợi, Tuyên Bình và cho đến những mùa nước tiếp theo, Mỹ -nguỵ không còn dám dùng thuyền bay vào vùng căn cứ đánh

Năm 1966, năm nước lụt lớn cánh đồng Vĩnh Đại, Vĩnh Châu, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Lợi, Hưng Điền biến thành biển nước mênh mông, có chỗ sâu đến 3, 4 mét, địch cho rằng các căn cứ vùng giải phóng của ta gặp nhiều khó khăn. Hoạt động của ta bị hạn chế phương tiện đi lại gặp nhiều khó khăn. Bọn chúng đưa thuyền bay, một trong những loại phương tiện hiện đại, chuyên dùng hoạt động trên sông
nước, loại này chạy phóng như bay trên mặt nước, chạy qua được những gò đất cỏ thấp, mỗi chiếc chở từ 4 đến 6 người. Lúc đầu mới xuất hiện chúng chạy quá nhanh, bộ đội và du kích ta lúng túng trong việc đối phó, du kích Vĩnh Đại phải
bám vào địa hình có cây cối cặp theo kênh để bảo toàn lực lượng, đồng thời nghiên cứu tìm cách đánh trả.

Tháng 10 năm 1967, Ban cán sự vùng 8 làm việc với các Đảng bộ xã, do đại đội địa phương quân vùng 8 được rút về trên để tăng cường cho tiểu đoàn 504, nên đôn du kích xã lên và phát động phong trào thanh niên tòng quân xây dựng lực lượng địa phương vùng. Chỉ trong 02 tháng toàn vùng 8 đôn quân du kích xã lên được 40 đội viên, phát động thanhniên tòng quân 120 thanh niên lên đường: xã Hưng Điền 40 thanh niên, xã Vĩnh Thạnh 15 thanh niên, xã Vĩnh Lợi 10 thanh niên, xã Vĩnh Đại 10 thanh niên còn lại xã Vĩnh Châu và Tuyên Bình. Sau đó thành lập đại đội địa phương quânVùng 8 gồm 120 chiến sĩ chia làm 3 trung đội, ban chỉ huy và Tuyên Bình. Sau đó thành lập đại đội địa phương quân Danh chính trị viên đại đội, đồng chí Hai Thành Ủy viênđại đội do đồng chí Ba Phận làm đại đội trưởng, Đinh Văn Ban cán sự-phụ trách quân sự. Còn 40 chiến sĩ thành lập 01 trung đội bảo vệ cho hậu cần chuyển vũ khí cho Sài Gòn-Gia Định.

Cuối năm 1967, Chi bộ Vĩnh Đại nhanh chóng xây dựng và phát triển lực lượng, một mặt đảm bảo được đường dây tuyến hành lang và vùng căn cứ, ngoài ra tham gia tăng cường chuẩn bị tiến công Mậu Thân 1968. Để đảm bảo được giữa khu căn cứ và vùng nhân dân đang sống an toàn, Chi bộ và Mặt trận xã Vĩnh Đại chủ trương cấp đất ruộng cho nhân dân, sản xuất lúa, nhận đìa, khai thác cá để sinh sống và tiện việc tiếp tế cho cơ sở cách mạng trong căn cứ. Cũng trong
giai đoạn này, Mỹ - nguy vây đánh vùng căn cứ ở xã Vĩnh Đại rất là ác liệt theo dự đoán Mỹ - nguy phát hiện vùng căn cứ này là một đoạn trong tuyến đường 1B nối tuyến đường qua Đồng Tháp xuống các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
Vì vậy, Mỹ - nguỵ quyết tâm cắt đứt, ta quyết tâm bám giữ, có những lúc ta và địch giành nhau từng khu rừng tràm, mảnh ruộng để bám giữ. Mỹ - nguy đưa vào đánh phá vùng căn cứ của ta lên đến cấp sư đoàn như Sư đoàn 7 và Sư đoàn 9. Trước tình hình đó, Chi bộ báo cáo về trên và được trên tăng cường hỗ trợ quân chủ lực như đơn vị X.16 hậu cần khuII, Tiểu đoàn 504 và Tiểu đoàn 267 luân phiên cùng du kích địa phương bám giữ đường dây và căn cứ. Chi bộ xã chỉ đạo
lực lượng du kích xã là không ngồi chờ địch đánh ta mới đánh chống trả mà chủ động vây đánh địch từ xa.

Mùa khô năm 1967, ta phối hợp du kích xã Tuyên Bình vậy đánh đồn Bình Châu và khu Măng Đa. Đến là mùa nước nổi, một đại đội biệt kích của địch xâm nhập vào căn cứ, nắm được tin ta tổ chức lực lượng du kích vây đánh, tiêu diệt tại chỗ 11 tên, số còn lại hoảng sợ rút chạy về khu Măng Đa. Năm 1967 ta luôn chủ động tấn công địch ngay trong địa bàn cũng như vành đai các địa phương xã bạn, nhất là chặn đánh bọn biệt kích của địch thường vào phục kích đánh phá cơ sở cách mạng của ta.

III. QUÂN VÀ DÂN VĨNH ĐẠI KIÊN TRÌ BÁM TRỤ, CHỐNG CHIẾN LƯỢC VIỆT NAM HOÁ CHIẾN TRANH CỦA MỸ-NGUỴ, TIẾN TỚI GIẢI PHÓNG QUÊ HƯƠNG (1969-1975).

Khi tình hình ruồng bố của địch vào căn cứ tạm lắng, Chi bộ lãnh đạo dân quân du kích xã tổ chức tham gia tải đạn và lương thực sang vùng 4 chuẩn bị cuộc tấn công mùa xuân Mậu Thân 1968. Cuối năm 1967, Chi bộ xã Vĩnh Đại có sự thay đổi đồng chí Út Xuân làm Bí thư; đồng chí Võ Văn Be làm Phó Bí thư; đồng chí Tám Cứ làm trưởng công an. Chi bộ xã có 13 đảng viên. Chi bộ đã chủ trương tham gia tập trung lực lượng xã vây đánh đồn Bình Châu nhằm cắt đứt tuyến đường Kiến Tường và Măng Đa và lực lượng du kích Măng Đa. Lực lượng du kích xã Vĩnh Đại tham gia chốt giữ nhiều ngày để cho lực lượng chủ lực tấn công vào tỉnh lỵ Kiến Tường trong trận Mậu Thân 1968.

Sau Mậu Thân, lực lượng ta rút về cứ an toàn và tiếp tục xây dựng lực lượng bảo vệ căn cứ và tuyến hành lang. Tuy nhiên trong lúc này, bảo vệ căn cứ cũng gặp khó khăn nhất là những năm nước nổi (lũ lớn) đồng trống, địch lợi dụng có phương tiện chiến tranh hiện đại phục kích ta như mùa nước năm 1971 địch phục kích bắn chết đồng chí Tám Cứ và bắt đồng chí Năm Đức.

Thất bại Xuân Mậu Thân 1968 Mỹ - nguy tăng cường củng cố lực lượng đến đầu năm 1969 tăng cường quân số tinh nhuệ vây đánh ta, nhất là vùng căn cứ kháng chiến như cho máy bay ban đêm soi bắn thả biệt kích nhóm phục hoặc vây đánh ta trong mọi tình huống, gây nhiều khó khăn cho ta. Trong khi lực lượng ta đang củng cố và bảo vệ vùng căn cứ. Lúc này, Chi bộ quyết tâm bám giữ căn cứ và mở rộng vành đai, không để Mỹ - nguỵ vây ép. Đó là vận động nhẫn dân sống ngoài vùng địch kiểm soát vào vùng căn cứ khai hoang mở ruộng sản xuất, đóng góp lương thực nuôi quân, đồng thời nắm tình hình địch khá chính xác, phát triển lực lượng sang Vĩnh Châu vây đánh đồn Vườn Chuối, đồn tại ấp Thạnh Linh xã Thạnh Lợi (ấp 5, xã Trường Xuân ngày nay) đồn Hậu Thạnh, buộc Mỹ - nguy co cụm hạn chế bao vây, càn quét và bố ráp vùng căn cứ Kinh Ngang Vĩnh Đại) đảm bảo thông suốt tuyến hành lang vận chuyển cho các vùng lân cận.

Trong mùa nước lũ năm 1970, du kích Vĩnh Châu nắm chắc đường bay, độ cao và quy luật của máy bay địch, đã có sáng kiến gài đầu đạn 105 ly trên cây gáo giữa đồng nước làm nổ tung chiếc HU 1A, thu một súng đại liên. Học tập kinh nghiệm trên, du kích xã Vĩnh Đại đã gài trái mìn một ký-lô-gam trên cây, máy bay quạt mạnh kích thích làm mìn nổ, chiếc “cá nóc” đã tan xác. Với lòng yêu quê hương xứ sở, căm thù địch sâu sắc, luôn luôn tìm mọi cách và bằng mọi thứ vũ khí trong tay, những người du kích bình thường này đã nghĩ ra nhiều sáng kiến để đối phó với kẻ thù. Tháng 5 năm 1970, đội du kích xã Vĩnh Đại kết hợp với đội du kích xã Tuyên Bình đột nhập vào 2 ấp chiến lược Chùa Nổi-Bình Châu diệt 02 tên ác ôn và phục kích đánh bọn bung ra, diệt 6 tên, còn một số sống sót chạy về đồn.

Năm 1970, Chi bộ xã Vĩnh Đại do đồng chí Võ Văn Be làm Bí thư; đồng chí Nguyễn Văn Lanh làm Phó Bí thư; đồng chí Nguyễn Văn Bê làm xã đội trưởng; đồng chí Lê Văn Cứ làm trưởng công an. Với chủ trương giành dân, lấn đất, đưa nhân dân vào vùng căn cứ sản xuất như làm ruộng, tát đìa làm ăn sinh sống ngày càng đông đúc hơn. Trong khi đó Chi bộ củng cố và xây dựng thành lập một trạm quân y được sự hỗ trợ của quân Khu 8 vùng 8 để chăm sóc và điều dưỡng thương binh. Trạm được xây dựng trong vuông đất ông Hai Hoàng kéo dài đến rạch Cả He. Trong dãy căn cứ quân y này được quân Khu xây dựng một cơ quan cơ yếu.
Ngoài khu quân y, trên địa bàn xã Vĩnh Đại được tỉnh xây dựng một khu công binh xưởng sản xuất vũ khí để chi viện cho các vùng lân cận như vùng 4 và vùng 8. Đây cũng là một minh chứng qua nhiều năm vượt mọi khó khăn gian khổ
quân và dân xã Vĩnh Đại vẫn bảo vệ an toàn khu căn cứ và phát triển ngày một lớn mạnh. Ngoài ra, Chi bộ chủ trương đẩy mạnh công tác binh vận kêu gọi anh em binh lính nguy về với gia đình và cách mạng.

Năm 1971, Mỹ - ngụy cũng tăng cường lực lượng đánh vào căn cứ ta cấp Sư đoàn thường là Sư đoàn 7 và Sư đoàn 9, ta chủ trương dựa vào dân lôi kéo quân địch. Ngoài lực lượng du kích phối hợp với quân chủ lực như X 16 công trường Năm - vây đánh trả quân địch, nổi bật là trận vây đánh trên tuyến kinh 62 suốt 6 ngày đêm đã tiêu diệt gần một tiểu đoàn của Sư đoàn 7 của địch. 

Năm 1972, với lợi thế vị trí của xã lực lượng vũ trang Vĩnh Đại đã đảm bảo được bí mật tuyệt đối của lực lượng an ninh vũ trang trong chiến dịch Tổng tiến công tổng hợp của các cơ quan Tỉnh ủy, tỉnh đội đã chuyển về đóng ở Vĩnh Đại. Ngoài việc bảo đảm, bảo vệ bí mật cơ quan, lực lượng an ninh và nhân dân xã đã phối hợp với lực lượng và nhân dân xã Vĩnh Châu bao vây, bức rút đồn mới, đồn công sự và đồn Hòa Bình, vận động làm rã ngũ 134 tên. Sự thành công và sáng tạo trong giai đoạn này là lực lượng an ninh xã Vĩnh Đại đã bảo vệ an toàn bí mật suốt thời gian Thượng tướng Trần Văn Trà trong chuyến đi công tác ngang qua xã Vĩnh Đại. Ngoài việc bảo vệ tốt các cơ quan cấp tỉnh và khu trên địa bàn xã, lực lượng an ninh đã bí mật bắt một số tên tề ấp, tề xã, kể cả những tên ở trong khu Măng Đa để tuyên truyền giáo dục, buộc chúng làm cam kết, giáo dục và tha về. Việc làm này đã có kết quả to lớn. Chính những tên được tha về đã tuyên truyền vận động trong nội bộ chúng, có tên còn cung cấp tin tức cho ta và hạn chế được một phần tổn thất cho cách mạng. 

Những năm 1972 - 1973, vùng căn cứ được mở rộng nhân dân vào vùng sản xuất làm ăn sinh sống ngày một đông đúc hơn, đường liên lạc giữa căn cứ và các tổ chức bên ngoài ngày được mở rộng, vùng căn cứ địch vẫn đẩy mạnh hoạt động đánh phá ta nhiều mặt như: cài mật báo Phượng Hoàng vào vùng căn cứ ta nhưng đều bị ta loại khỏi vùng căn cứ. Đặc biệt gây thiệt hại cho ta nhiều nhất là địch cho máy bay B52 rải bom dọc theo tuyến Kênh Ngang máy bay thả bom gây cho ta tổn thất lớn như: địch dùng máy bay bắn róc két làm cho đồng chí Võ Văn Be hy sinh cùng một số đồng chí khác. Đồng chí Út Lanh - Phó Bí thư tạm thời lãnh đạo chi bộ với nhiệm vụ thay đồng chí Võ Văn Be (Sáu Be) đã hy sinh. 

Năm 1974 trên đưa đồng chí Võ Thanh Bình về làm Bí thư xã Vĩnh Đại, nhưng ngay trong lúc này địch vẫn luân phiên giữ Sư đoàn 7 và Sư đoàn 9 thường xuyên đánh vào căn cứ nhưng Chi bộ xã vận động nhân dân vào căn cứ làm ăn hợp pháp trong vùng căn cứ để tạo điều kiện đẩy mạnh nhiệm vụ vận chuyển cho các vùng lân cận và bảo đảm đường tuyến vận chuyển hành lang an toàn.

Tháng 5 năm 1974 địch bị quân ta vây đánh khắp các vùng buộc chúng phải co cụm lại hoặc chi viện cho nhau giữa các chiến trường. Vì vậy Mỹ - nguỵ bớt đi bao vây căn cứ của ta. Ta nhanh chóng mở rộng vùng căn cứ thông thương với bên ngoài vùng chiến lược, nhân dân vào sản xuất ngày một đông. 

Đầu năm 1975, chuẩn bị cuộc tổng tiến công, các lực lượng quan trọng của trên về đứng chân trên địa bàn xã tiếp cận chiến trường. Nhân dân xã nhà tập trung góp người, góp của tăng cường cho lực lượng của xã, cho các đơn vị của trên với hàng chục tấn lương thực, thực phẩm, hàng trăm con người hăng hái tham gia chiến dịch tổng tiến công, đồng thời phối hợp tiến công cùng các lực lượng giải phóng toàn khu Măng Đa.

Lá Cờ Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay trên các nóc nhà các gia đình nông dân, trong các ấp vừa được giải phóng vào trưa ngày 30 tháng 4 lịch sử. 

Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước đến đây kết thúc. Sau hai mươi mốt năm kiên cường chịu đựng vô vàn khó khăn gian khổ hy sinh, giờ đây quê hương Vĩnh Đại được hoàn toàn giải phóng. Hai mươi mốt năm ấy nhiều đồng bào, chiến sĩ, cán bộ đảng viên ngã xuống vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một lon gạo, một ca nước, một tấm áo, một căn hầm bí mật đều được đổi bằng máu của người dân vốn nghèo đói lam lũ nơi đây. Những phẩm cách vốn có của người dân Vĩnh Đại được thể hiện qua khí phách quật cường trước mọi gian nguy, trong tinh thần đoàn kết gắn bó xuyên suốt các giai đoạn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nhân dân Vĩnh Đại cùng nhân dân cả nước bắt đầu bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

 

Chương hai

VĨNH ĐẠI TRONG XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN

 KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ BẢO VỆ QUÊ HƯƠNG

 (1975-2010)

 

I. KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH, TỪNG BƯỚC ỔN ĐỊNH ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN (1975-1985)

1. Khắc phục hậu quả chiến tranh (1975-1978) 

Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ đã thắng lợi đánh dấu bằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 30/4/1975. Nhân dân ta đã giành độc lập dân tộc, thực hiện chỉ đạo của Đảng tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Mở ra một thời kỳ mới thời kỳ cả nước bước vào làm nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

Trên mảnh đất Vĩnh Đại anh dũng và kiên cường trong chiến tranh nay được bước vào giai đoạn xây dựng cuộc sống mới đối diện với nhiều khó khăn, thử thách của một xã sau nhiều năm chiến tranh. 

Sau ngày giải phóng, cả nước, tỉnh, huyện nói chung và nhân dân xã Vĩnh Đại nói riêng đều chịu hậu quả nặng nề, nông nghiệp đình đốn, đa phần ruộng đất bị bỏ hoang và chưa được cải tạo nên sản xuất không được. Mọi cơ sở vật chất bị hư hỏng, đường sá giao thông đi lại khó khăn, nhà cửa bị tàn phá, đời sống nhân dân khó khăn chồng chất khó khăn. Tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể còn mỏng, chưa tập trung, còn lúng túng trong công tác chỉ đạo sau chiến tranh. Thực hiện sự chỉ đạo của tỉnh, huyện là nhanh chóng xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, truy quét tần quân địch đẩy mạnh sản xuất, khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân, bảo vệ an ninh chính trị, xây dựng giữ vững thành quả cách mạng. 

Trong thời gian ngắn, Chi bộ, chính quyền, đoàn thể thực hiện nhiệm vụ ổn định tình hình chính trị, sản xuất, đời sống nhân dân. Đối với nguỵ quân, nguỵ quyền xã huy động lực lượng truy quét và đưa ra trình diện, đưa đi học tập, cải tạo song song đó là củng cố lực lượng an ninh chính trị địa phương. 

Đối với tình hình sản xuất gặp nhiều trở ngại nhất là việc thiếu lương thực, giá cả không ổn định, ruộng đất chủ yếu là đầm lầy, một số ruộng đất canh tác được chỉ sản xuất 01 vụ, năng suất thấp. Nhân dân chỉ biết dựa vào kinh nhiệm để sản xuất, tập quán còn lạc hậu, trình độ dân trí còn thấp, đa số con em còn mù chữ... Do đó việc ổn định, khắc phục những khó khăn đòi hỏi cấp bách. Với tinh thần đoàn kết, phát huy truyền thống cách mạng kiên cường, bất khuất Chi bộ lãnh đạo nhân dân cùng nhau vượt qua những khó khăn và chỉ trong một thời gian ngắn đã ổn định bước đầu đạt một số kết quả các mặt kinh tế - xã hội. 

Củng cố Chi bộ, chính quyền là nhiệm vụ đặt lên hàng đầu sau ngày giải phóng. Trong lúc lực lượng cán bộ, đảng viên còn ít, một số hy sinh trong chiến tranh, một số sau chiến tranh về nghỉ mất sức, bộ đội phục viên, thương binh xin về nhà. Chất lượng đảng viên chưa cao, năng lực chính trị còn thấp. Được sự quan tâm chỉ đạo của Huyện uỷ, Chi bộ xã ngay từ những ngày đầu mới tiếp quản đã tập trung củng cố lại công tác tổ chức, Chi bộ do đồng chí Võ Thanh Bình làm Bí thư. Bộ máy từ Chi bộ, chính quyền đến các đoàn thể tập trung mọi cố gắng, nguồn lực để khắc phục hậu quả chiến tranh. 

Để đánh giá kết quả đạt được thời gian sau 01 năm khắc phục hậu quả chiến tranh, tiếp tục củng cố tổ chức, đề ra nhiệm vụ cho thời gian tiếp theo, Đại hội Chi bộ xã Vĩnh Đại đã được tổ chức từ ngày 25/10-27/10/1976. Tham dự đại hội có 19 đồng chí đảng viên và khách mời. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Chi uỷ gồm 5 đồng chí, đồng chí Võ Thanh Bình được bầu làm Bí thư Chi bộ kiêm Chủ tịch UBND; đồng chí Nguyễn Văn Lanh - Phó Bí thư; đồng chí Nguyễn Văn Bê - Chi uỷ viên, xã đội trưởng; đồng chí Nguyễn Văn Thuyền - Chi uỷ viên, Trưởng công an; đồng chí Nguyễn Thị Khanh - Chi uỷ viên, Chủ tịch Hội phụ nữ. Đại hội đánh giá cao kết quả sau 01 năm thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng, khắc phục hậu quả chiến tranh, mặc dù kết quả đạt được chưa cao. 

Bộ máy Chi bộ, chính quyền từ xã đến ấp được củng cố, hoạt động dần đi vào nề nếp. Tham gia bầu cử đại biểu quốc hội, xã đều thực hiện nghiêm túc đã có 650/671 cử tri đi bầu cử, đạt 96,87% thể hiện ý thức trách nhiệm của nhân dân rất cao trong xây dựng chính quyền mới. Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cải tạo kết hợp với truy quét tàn quân địch. Cơ bản xã đã phá vỡ hệ thống tổ chức của địch, giữ gìn an ninh trật tự. 

Về sản xuất, xã đã vận động nhân dân tham gia sản xuất, mở rộng diện tích khai hoang phục hoá, tăng năng suất, tăng diện tích vụ mùa. Trong xã đã bắt đầu thực hiện xây dựng được tập đoàn, tổ đổi công. Chi bộ chỉ đạo nhân dân khai mở kinh ngang, chỉ trong vòng 28 ngày xã đã hoàn thành 11.730 m kinh mương đảm bảo kịp thời cho nhân dân sản xuất; khôi phục lại cầu đường và một số lộ chính. Ngoài ra, Chi bộ đã lãnh đạo nhân dân sửa chữa, xây dựng lại trạm y tế, trường học, khu làm việc của uỷ ban. Vận động hàng trăm gia đình trở về xã để sản xuất, ổn định cuộc sống. Năm 1977, diện tích canh tác xã 1.686 ha, cân đối được lương thực trong xã và làm nghĩa vụ đóng thuế trên 1.600 giạ lúa. 

Xã Vĩnh Đại đã tiến hành cải tiến việc phân phối thương nghiệp với một số hàng hoá như xăng dầu mặc dù trong điều kiện còn khó khăn. Trong lãnh đạo Chi bộ phát huy truyền thống cách mạng, tinh thần đoàn kết trong dân, thực hiện Nghị quyết của Đảng, phát động nhiều phong trào lớn như phong trào lao động sản xuất, làm thuỷ lợi, chăn nuôi, trồng trọt; phong trào xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, chống văn hoá phẩm độc hại; phong trào xoá mù chữ cho nhân dân; phong trào làm nghĩa vụ đóng thuế nhà nước... Từ đó làm chuyển biến nhận thức của người dân về chính trị, sản xuất, đưa sản xuất đi vào nền nếp hơn, tạo động lực lớn cho nhân dân phấn đấu xây dựng xã phát triển trong thời kỳ mới.

Tuy nhiên, Chi bộ xã nghiêm túc chỉ ra một số yếu kém của cán bộ, đảng viên và những khó khăn cần khắc phục. Trong lãnh đạo xây dựng thời kỳ mới, Chi bộ chưa có kinh nghiệm, năng lực lãnh đạo còn yếu, chưa cụ thể hoá nghị quyết bằng những kế hoạch, chương trình cụ thể, một số cán bộ đảng viên còn quan liêu, hách dịch với dân và bị tư sản mua chuộc làm tư lợi cho cá nhân, chưa phát huy được vai trò làm chủ của nhân dân. Trong sản xuất nông nghiệp chưa mang lại hiệu quả sản xuất cao, chưa nắm lại tình hình ruộng đất. Việc thực hiện tổ đổi công chưa phát huy được hiệu quả, năng suất còn thấp. Để phát huy những thuận lợi đạt được trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chi bộ đã hạ quyết tâm chỉ đạo phát huy tiềm năng của xã, khắc phục khó khăn đưa ra một số nhiệm vụ trọng tâm: 

Tăng cường củng cố bộ máy từ xã xuống ấp thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng trong nhân dân, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, xây dựng lực lượng cán bộ, bổ sung các ban chuyên môn, đảm bảo cho quản lý các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội. Xây dựng nghị quyết chuyên đề cho từng lĩnh vực, học tập, bồi dưỡng nâng cao năng lực lãnh đạo cho cán bộ, đảng viên. Toàn quân và dân xã tham gia thực hiện cuộc vận động bầu cử quốc hội, thể hiện ý thức trách nhiệm của công dân trong việc xây dựng chính quyền từ trên xuống, trong xây dựng chế độ mới.

Tập trung cho sản xuất, lương thực, thực phẩm, thu hoạch phải song song thu mua, thu thuế, chuẩn bị tốt cho mùa vụ, phấn đấu đạt chỉ tiêu kế hoạch huyện đề ra. Nhanh chóng xoá bỏ tàn dư phong kiến, địa chủ; cải tạo công thương nghiệp tư sản tư doanh, xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nhất là nông nghiệp, từng bước đưa quần chúng vào con đường làm ăn tập thể, tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp nâng cao năng lực quản lý toàn diện. 

Đẩy mạnh công tác văn hoá tư tưởng trong quần chúng, phát động phong trào thi đua yêu nước, xây dựng ý thức làm chủ tập thể, ý thức lao động làm ăn xã hội chữ nghĩa. Phát huy tinh thần yêu nước gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tăng cường thông tin tuyên truyền, phát triển giáo dục, xây dựng nếp sống lành mạnh, xoá bỏ hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, đẩy mạnh phong trào văn nghệ. 

Dưới sự chỉ đạo của Huyện uỷ và nghị quyết của Chi bộ, với thế mạnh được đánh giá cao và sự quyết tâm thống nhất của cán bộ, đảng viên và nhân dân việc khắc phục hậu quả chiến tranh và ổn định sản xuất đã có kết quả khả quan. 

Cuối năm 1976, cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam bùng nổ gây hoang mang, dao động trong quần chúng nhân dân. Chi bộ một mặt tuyên truyền sâu rộng trong dân một mặt vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của địch, xây dựng củng cố lực lượng hỗ trợ kịp thời để đấu tranh đánh giặc Pôn pốt, giữ vững chính quyền. Lực lượng vũ trang của xã cùng với lực lượng của các xã biên giới đã góp phần vào chiến thắng giặc Pôn pốt. Chiến thắng đó một lần nữa khẳng định tinh thần đoàn kết, đấu tranh anh

dũng của quân dân ta đánh giặc ngoại xâm.  

2. Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội (1978-1985)

Thực hiện nhiệm vụ chính trị của xã nhiệm kỳ (1976- 1977) trong điều kiện tình hình khó khăn chung của cả nước là trải qua cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm và chiến tranh biên giới Tây Nam. Với sự nỗ lực của chính quyền, đoàn thể và sự đoàn kết cao trong nhân dân, xã Vĩnh Đại đã đạt được những kết quả nhất định. Bộ máy chính quyền tham gia tốt vai trò việc ổn định sản xuất, chăm lo đời sống cho người dân. Khai thác, mở rộng đất trồng lúa, lượng lương thực đã đáp ứng được phần lớn cho người dân. Trường học đã được sửa chữa lại, tiến hành dạy học cho con em trong xã đảm bảo đúng thời gian. Tích cực tuyên truyền vận động các đối tượng tàn quân địch nhanh chóng ra trình diện, cải tạo lực lượng an ninh vũ trang để kịp thời ngăn chặn những âm mưu phá hoại của địch, giữ vững thành quả cách mạng.

Từ năm 1977, công cuộc cải tạo và xây dựng phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương đi vào ổn định, tiến hành khai hoang phục hoá và mở rộng diện tích thâm canh, quy hoạch lại ruộng đất. Phương hướng, nhiệm vụ của Chi bộ xã Vĩnh Đại nhiệm kỳ (1977-1979) cũng đã đưa ra mục tiêu chính là tiếp tục đẩy mạnh lao động sản xuất, khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành phương thức làm ăn tập thể, mở rộng diện tích, quy hoạch lại đất đai, phấn đấu đủ lương thực cho nhân dân trong xã, đi đôi với sản xuất là xây dựng các công trình thuỷ lợi tạo điều kiện cho việc thâm canh tăng vụ, tăng năng suất. 

Đẩy mạnh và tạo điều kiện thích hợp cho hoạt động văn hoá, với các mặt y tế, giáo dục, tuyên truyền, vận động, chăm lo sức khoẻ cho người dân, giữ gìn an ninh chính trị. Củng cố Đảng, chính quyền, đoàn thể, nâng cao sức chiến đấu của Đảng, vai trò quần chúng lãnh đạo nhân dân trong việc xây dựng và phát triển xã trong giai đoạn mới. Đồng chí Nguyễn Văn Bê được bầu làm Bí thư Chi bộ; đồng chí Nguyễn Văn Lanh - Phó Bí thư; đồng chí Đào Văn Rong - Chủ tịch UBND; đồng chí Nguyễn Văn Hoàng - Chỉ u viên, Phó Chủ tịch UBND; đồng chí Nguyễn Văn Hùng - Trưởng công an.

Vĩnh Đại đang trên con đường phát triển với những phong trào sôi nổi từ phong trào sản xuất đến phong trào phát triển văn nghệ. Đến cuối năm 1979 đầu năm 1980, nhiều nhiệm vụ quan trọng xã đã thực hiện tốt. Con đường làm ăn tập thể được phát huy, diện tích canh tác có mở rộng, công tác cải tạo nông nghiệp được thực hiện. Năm 1979, xã đã vận động được gần 90% nhân dân vào con đường làm ăn tập thể với 80% diện tích đất canh tác, được nhân dân đồng loạt đưa vào sản xuất. Trong văn hoá việc phát triển văn hoa thời kỳ mới, xoá bỏ những văn hoá phẩm có nội dung xấu đã triệt để. Xuyên suốt quá trình chỉ đạo của Chi bộ luôn luôn đặt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội lên hàng đầu. Tuy nhiên trong quá trình chỉ đạo những kết quả đạt được chưa cao, và còn gặp khó khăn được Chi bộ đánh giá qua việc tổng kết nhiệm kỳ (1979-1981) và đề ra phương hướng nhiệm kỳ (1981-1983).

Công tác cải tạo nông nghiệp còn rất mới, rất lớn, toàn diện đòi hỏi nhân dân phải hiểu biết và làm đúng nên một số tập đoàn sản xuất chưa ổn định, còn tư tưởng máy móc, kết quả chưa cao. Việc phát triển giáo dục chưa đồng bộ, công tác vận động quần chúng nặng về huy động nghĩa vụ và hành chính, tuyên truyền vận động quần chúng chưa đi vào chiều sâu. Nhiệm vụ trong thời gian tới Chi bộ nêu rõ cần quy hoạch, phân vùng, ổn định sản xuất, mở rộng diện tích, thâm canh tăng vụ, kết hợp trồng trọt và chăn nuôi. Ngoài nông nghiệp cần phát triển thêm các ngành nghề khác. 

Xây dựng cơ sở vật chất trường, trạm, đường sá, hệ thống giao thông thuỷ, bộ tạo điều kiện cho sản xuất và đời sông của nhân dân, tiếp tục sửa chữa trụ sở làm việc của chính quyền xã.

Kiện toàn bộ máy Chi bộ, chính quyền. Thường xuyên đổi mới trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, đổi mới lề lối làm việc theo nguyên tắc đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân làm chủ. Xuyên suốt quá trình lãnh đạo, Chi bộ xã luôn xác định nhiệm vụ trọng tâm là phát huy diện tích đất đai, tập trung sản xuất nông nghiệp. Đến năm 1983, thực hiện chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh, Huyện uỷ Vĩnh Hưng là phân bố lại lao động, khai thác vùng Đồng Tháp Mười, triển khai nhiệm vụ cho từng xã. Đại hội Chi bộ xã Vĩnh Đại nhiệm kỳ (1983-1985) nhanh chóng có sự chuyển hướng mới trong chỉ đạo phát huy thế mạnh của xã nhất là thế mạnh trong sản xuất nông nghiệp. Thay đổi nhận thức phát triển kinh tế, nâng cao mức sống, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của người dân. Đại hội Chi bộ xã Vĩnh Đại bầu đồng chí Nguyễn Thị Sấm làm Bí thư Chi bộ; đồng chí Trần Văn Trung - Phó Bí thư; đồng chí Nguyễn Minh Công - Chi uỷ viên, Chủ tịch UBND; đồng chí Trương Văn Út - Chi uỷ viên, Phó Chủ tịch UBND; đồng chí Dương Văn Trị - Chi uỷ viên, Trưởng công an. 

Trong sản xuất nông nghiệp nắm lại đất đai và nguồn lao động của xã, kiên quyết đấu tranh loại bỏ tư tưởng độc canh cây lúa nổi. Đầu năm 1984, chuyển 20 ha lúa đông xuân và 200 ha lúa hè thu, quy hoạch lại đất đai, giao cho từng tập đoàn quản lý cụ thể từng vùng đất, định dạng rõ ràng đúng theo chỉ đạo 100 của Trung ương. Nhằm tạo điều kiện, cải tạo đồng ruộng, thâm canh tăng vụ tăng năng suất từ 1,4 tạ/ha lên 2,6 tạ/ha, bố trí diện tích trồng hoa màu. 

Củng cố cải tạo các tập đoàn nâng cao chất lượng hoạt động theo đúng quy chế của nhà nước, áp dụng khoa học kỳ thuật vào sản xuất. Điều chỉnh lại đất đai cho công bằng, tiến hành tập thể hoá tư liệu sản xuất. Quy định vùng đất cây tràm cho các tập đoàn thu hẹp những hộ cá thể, mở rộng diện tích tập thể (20 ha đối với tập thể, 10 ha đối với cá thể). Trong phân phối lưu thông, củng cố Hợp tác xã mua bán, tiến hành kiểm tra, xử lý những cán bộ, công nhân viên vi phạm, nắm vững thị trưởng ổn định giá cả. 

Chi bộ chủ trương xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục như hoàn chỉnh trường cấp II xã, xây dựng, tu sửa 5 điểm trường cấp I. Củng cố Trạm y tế xã thực hiện trực thường xuyên phục vụ thuốc men đầy đủ. Đẩy mạnh phong trào văn nghệ trong ấp, khu dân cư, nhà trường. 

Quan tâm bồi dưỡng về trình độ chính trị cho đảng viên, công nhân viên. Tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng cho nhân dân biết và thực hiện. Nâng cao chất lượng dạy và học ở xã. Bài trừ những văn hoá phẩm độc hại, tệ nạn xã hội xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. 

Đối với công tác an ninh, quốc phòng, xã củng cố an ninh quân sự, xây dựng lực lượng vũ trang, phải tổ chức mỗi tập đoàn là một tổ trị an và 1 tiểu đội dân quân, thường xuyên phát động phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Kiện toàn bộ máy Đảng, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể. Trong Chi bộ đã phân công nhiệm vụ, bố trí, giao trách nhiệm cho từng chi uỷ và đảng viên, làm nòng cốt thực hiện nhiệm vụ ở tập đoàn sản xuất. Củng cố 3 đoàn thể (Nông hội, Phụ nữ, Thanh niên), mỗi tập đoàn phải được tổ chức đầy đủ 3 đoàn thể, đặc biệt Chi bộ nêu rõ công tác phát triển đảng viên, hội viên và cụ thể hoá nghị quyết của Chi bộ thành chương trình kế hoạch từng quý, năm để thực hiện là cần thiết. 

Trong thời gian ngắn tình hình của xã còn khó khăn, Chi bộ đã đẩy mạnh các hoạt động trên từng nhiệm vụ làm cho nhân dân có sự chuyển biến về tư tưởng và ý thức tổ chức sản xuất cải tạo đồng ruộng, thâm canh tăng vụ, phát triển ngành nghề, lưu thông phân phối, phong trào an ninh quốc phòng, phong trào học tập bổ túc văn hoá, phong trào xây dựng nếp sống mới, con người mới xã hội chủ nghĩa... 

Đến năm 1985, sau nhiều năm khắc phục hậu quả chiến tranh ổn định sản xuất, thực hiện nhiệm vụ của tỉnh, huyện giao, xã Vĩnh Đại đạt được những kết quả khả quan. Trong sản xuất nông nghiệp toàn xã đã gieo sạ được 2.000 ha, lương thực phần lớn đáp ứng cho nhân dân. Thu mua hàng năm đều tăng lên, đến năm 1985 đã thu mua trên 1.000 tấn. Củng cố, xây dựng các công trình thuỷ lợi như kênh 20/3 đào được 20.000 m, hoàn thành nghĩa vụ lao động của huyện và đạt giải nhì toàn huyện, đây là cơ sở để tạo điều kiện từng bước chuyển lên sản xuất 2 vụ. Toàn xã đã đưa 95% hộ nông dân vào tập đoàn sản xuất gần 90% diện tích được đưa vào canh tác, xây dựng được 15 tập đoàn. Từ khi xây dựng tập đoàn, nông dân được hỗ trợ và tương trợ lẫn nhau nhất là những hộ khó khăn. Trong lâm nghiệp, xã tổ chức quản lý, phân loại diện tích cây tràm, với 844 ha chia cho các tập đoàn trồng và quản lý, xoá bỏ dần vùng đất bị bỏ hoang. 

Như vậy, về sản xuất với việc thành lập các tập đoàn và đưa diện tích, nhân dân làm ăn tập thể đã phần nào giải quyết được lượng lương thực cho nhân dân. Trong phát triển văn hoá, xã đã xây dựng 6 điểm trường trong đó có 1 điểm ' trường cấp II, tổng số có 404 học sinh (trong đó có 76 học sinh cấp II). Cơ sở vật chất trường lớp đã giải quyết đủ cho học sinh ngồi học. Đội ngũ giáo viên đã bám trường, nâng về chất lượng dạy học, và làm tốt nhiệm vụ vận động con em đến trường, xoá nạn mù chữ, thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học. Trạm y tế được sửa chữa để phục vụ khám bệnh cho nhân dân. Đào tạo, bồi dưỡng 2 nhân viên về y tế, khuyến khích nhân dân trồng cây thuốc nam, cây thuốc trong dân gian để phòng và chữa bệnh. Đẩy mạnh thực hiện phong trào sinh đẻ có kế hoạch. Xã thường xuyên chăm lo cho gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, thu gom hài cốt liệt sĩ và tiến hành quy hoạch khu nghĩa trang liệt sĩ xã, thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao được duy trì, xã thành lập đội bóng đá, bóng chuyền, nâng cao đời sống tinh thần trong nhân dân. 

Mặt trận an ninh quốc phòng được giữ vững, được Chi bộ coi đây là nhiệm vụ quan trọng đảm bảo cho ổn định xã hội, phát triển kinh tế, bảo vệ cách mạng. Hàng năm, xã tiến hành tuyển quân đạt chỉ tiêu huyện giao. Ý thức giữ gìn an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội được nhân dân đề cao, thanh niên sẵn sàng làm nghĩa vụ tham gia quân đội chiến đấu trận áp bọn phản cách mạng giữ gìn thành quả cách ninh nhân dân. Mỗi tập đoàn tổ chức 01 tổ trị an năm hộ mạng. Củng cố Ban Công an xã, xây dựng mạng lưới an khẩu, phát hiện và ngăn chặn các phần tử xấu giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn xã. 

Đảng, chính quyền, đoàn thể được củng cố và đi vào hoạt động có hiệu quả. Hội đồng nhân dân xây dựng nghị quyết và kế hoạch hàng quý, năm thực hiện tốt chủ trương của Chi bộ, trong hoạt động đã giám sát và điều chỉnh chỉ tiêu phù hợp với tình hình địa phương. Tăng cường củng cố, bồi dưỡng cán bộ làm các chức năng nghiệp vụ của Uỷ ban nhân dân như cán bộ Nông nghiệp, Thuỷ lợi, Thú y, Y tế, Thể dục thể thao, Hợp tác xã mua bán, Hợp tác xã tín dụng... 

m Trong hoạt động Chi bộ phát huy quyền làm chủ tập thể của người dân, cải tiến lề lối làm việc, chủ động, sáng tạo nắm bắt nghị quyết cấp trên và cụ thể hoá thành nghị quyết của Chi bộ, quán triệt cho cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện. Qua các nhiệm kỳ Chi bộ được củng cố và ngày càng vững mạnh, nâng cao được năng lực trong lãnh đạo, kiện toàn Ban Chấp hành Chi uỷ, được kiểm chứng qua kết quả kinh tế - xã hội những năm qua nhất là việc mở rộng diện tích sản xuất, xây dựng hệ thống thuỷ lợi, chăm lo ổn định đời sống của người dân. Trong những năm qua công tác phát triển đảng viên luôn được coi trọng, mỗi năm phát triển trung bình 5 đảng viên mới, tạo thêm sức mạnh cho Chi bộ Đảng.

Uỷ ban nhân dân xã tích cực trong thực hiện nghị quyết, xây dựng kế hoạch, chương trình ở từng năm, phù hợp từng nhiệm kỳ. Chính quyền đã góp phần lớn trong việc đưa cuộc sống người dân dần ổn định. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể luôn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dẫn, nếu cao trách nhiệm của các hội viên trong xây dựng cuộc sống mới. Mặt trận và đoàn thể của xã không ngừng phát triển các tổ nông hội, tổ phụ nữ, tổ thanh niên ở các tập đoàn sản xuất, ấp có phân hội, xã có chi hội. Nông hội làm nòng cốt trong phong trào cải tạo nông nghiệp, đẩy mạnh thâm canh, phát triển chăn nuôi và các ngành nghề tiểu thủ công. Phụ nữ làm nòng cốt trong phong trào người phụ nữ mới nuôi con khoẻ, dạy con ngoan, phong trào sinh đẻ có kế hoạch. Thanh niên làm nòng cốt trong phong trào 3 xung kích làm chủ tập thể. Trong các đoàn thể đều có phân công đảng viên tham gia hoạt động, lãnh đạo và làm nòng cốt cho phong trào. 

Mười năm sau chiến tranh cùng với những khó khăn chồng chất, và tổ chức hoạt động của chính quyền đoàn thể còn yếu, Chi bộ có nỗ lực lãnh đạo xã phát triển đi đúng hướng theo tinh thần chỉ đạo của trên. Từ việc chỉ đạo ổn định đời sống đến việc mở rộng đất canh tác, khoanh vùng đất phân chia cho các tập đoàn, đưa nhân dân vào con đường làm ăn tập thể, đến nay đời sống nhân dân có bước thay đổi. Từ chỗ nhân dân trong xã thiếu ruộng, thiếu đất canh tác, thiếu lương thực, nhà cửa còn thô sơ nay ruộng đất được cải tạo đưa vào sản xuất với diện tích tương đối, lương thực đáp ứng phần lớn cho nhân dân, nhà cửa được sửa sang, con em được đi học... Đây là những tiền đề lớn tạo điều kiện cho xã bước vào giai đoạn phát triển với nhiều thời cơ và thách thức.

II. VĨNH ĐẠI TRONG GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG (1986-1996). 

1. Vĩnh Đại khắc phục khó khăn, bước đầu thực hiện đường lối đổi mới (1986-1991). 

Qua mười năm khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển sản xuất bước đầu cải thiện đời sống nhân dân, làm thay đổi một phần bộ mặt của xã. Tuy nhiên sự phát triển đó kết quả đạt được chưa cao, chưa phát huy được thế mạnh của địa phương. Đại hội Chi bộ xã Vĩnh Đại nhiệm kỳ (1985- 1987) đã nghiêm túc đánh giá lại đưa vào tình hình thực tế của xã, có hướng phát triển mới trong điều kiện mới đó là đất nước có bước chuyển mình bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện. Đại hội bầu đồng chí Nguyễn Thị Sấm làm Bí thư; đồng chí Phạm Văn Nhựt - Phó Bí thư; đồng chí Nguyễn Minh Công - Chi uỷ viên, Chủ tịch UBND; đồng chí Huỳnh Công Thành - Chi uỷ viên, Phó Chủ tịch UBND; Trương Văn Út - Chi uỷ viên, Phó Chủ tịch UBND. 

Chi bộ nhấn mạnh và chỉ ra trong thời gian tiến hành quản lý theo con đường làm ăn tập thể, cải tạo chủ nghĩa xã hội, sản xuất nông nghiệp diện tích có mở rộng nhưng năng suất thu hoạch không cao, chỉ có độc canh cây lúa, việc thâm canh tăng vụ rất ít, quy hoạch vùng đất nhưng tập đoàn quản lý không chặt chưa áp dụng khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng. Các ngành nghề thủ công như: đan, may, rèn, đóng xuồng... có nhưng chưa tổ chức theo nề nếp. Toàn xã tổ chức 15 tập đoàn sản xuất, chất lượng hoạt động chưa đúng, làm ăn không khoa học, vốn tích lũy, tái sản xuất còn nằm trong tập đoàn viên, quản lý điều hành của tập đoàn còn yếu. 

Đời sống văn hoá tinh thần còn hạn chế, giáo dục, y tế c thay đổi theo hướng tích cực ngày một hoàn thiện hơn nhưng chưa được quan tâm đúng mức. Việc phân phối lưu thông hàng hoá còn thiếu và chưa hợp lý... Nhìn nhận đúng và thẳng vào sự thật, Chi bộ có những hướng khắc phục những yếu kém đó. 

Tháng 12 năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã để ra đường lối đổi mới một cách toàn diện trên tất cả các mặt, sử dụng nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Phát triển kinh tế theo 3 chương trình lớn là lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Trước yêu cầu cấp bách của đất nước nói chung và sự chỉ đạo của tỉnh, huyện, Chi bộ xã Vĩnh Đại tiếp thu và chuyển hướng thực hiện theo đường lối đổi mới, xây dựng nghị quyết phù hợp với tình hình. Theo đó, đối với xã là đẩy mạnh sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp. Tận dụng tối đa nguồn lực của địa phương, phân vùng quy hoạch, bố trí các loại cây trồng phù hợp, từng bước chuyển cây lúa 01 vụ sang phát triển cây lúa 2 vụ và cây công nghiệp ngắn ngày. Nâng cao năng lực của nhân dân trong sản xuất, củng cố, kiện toàn tập đoàn, tăng cường sự phát triển văn hoá xã hội, đưa đời sống tinh thần của người dân mức cao hơn. Nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về thực hiện thắng lợi nghị quyết của Chi bộ. Kịp thời nắm bắt và đổi mới cơ chế quản lý xoá bỏ quan liêu bao cấp, thực hiện việc khoán sản phẩm đến tay người lao động, phát huy vai trò của cá nhân trong sản xuất. Kiện toàn Đảng, chi uỷ củng cố chính quyền, đoàn thể, tập trung chỉ đạo thực hiện theo nghị quyết của Chi bộ và tinh thần Nghị quyết của Đại hội VI của Đảng. 

Đầu năm 1988, chỉ sau hơn 2 năm thực hiện đường lối đổi mới, Chi bộ đã định hướng được mục tiêu phát triển của địa phương, việc tiến hành phát triển kinh tế, văn hoá đang trình lương thực, thực phẩm để có cơ sở vừa đáp ứng cho có bước khởi đầu khá thuận lợi, ưu tiên phát triển chương nhu cầu địa phương và xuất khẩu. Diện tích sản xuất 2 vụ được nâng cao hơn trước, bên cạnh đó cây hoa màu được trồng nhiều hơn, mô hình chăn nuôi theo hộ gia đình được phát huy khá tốt. Điều quan trọng hơn là nhân dân đã nâng cao được nhận thức của mình và đoàn kết, ủng hộ thực hiện tốt chủ trương đổi mới bởi đường lối đó hợp với lòng dân và đem lại lợi ích cho toàn bộ nhân dân. An ninh, chính trị được giữ vững, ý thức của người dân về xây dựng con người thời kỳ đổi mới được nâng cao hơn, gắn với phong trào thi đua trong lao động sản xuất là các phong trào văn hoá, văn nghệ... Chi bộ xã được nâng cao năng lực lãnh đạo, được kiểm chứng trong lãnh đạo, điều hành. Thay đổi tư duy, lề lối làm việc đã giúp cho bộ máy chính quyền ở xã được hoàn thiện. Chi bộ đưa ra phương hướng, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ (1987-1989), Đại hội Chi bộ xã Vĩnh Đại bầu đồng chí Nguyễn Thị Sấm làm Bí thư Chi bộ; đồng chí Nguyễn Minh Công - Phó Bí thư, Chủ tịch UBND; đồng chí Phạm Văn Nhựt - Chi uỷ viên, phụ trách khối vận; Trần Văn Bé - Chi uỷ viên, xã đội trưởng; đồng chí Trương Văn Út - Chi uỷ viên, Phó Chủ tịch UBND. 

Phát huy kết quả đạt được phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, duy trì và tăng lên về chỉ tiêu sản xuất nông nghiệp và các ngành nghề khác. Xác định cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông - lâm - ngư nghiệp với việc đầu tư, áp dụng khoa học kỹ thuật, thâm canh, tăng vụ, nâng cao năng suất, sản lượng, chuyển 100% diện tích lúa lên 2 vụ với 1.100 ha. Cải tạo các đầm hồ, phát triển ngư nghiệp, cải tạo đất đai, mở rộng diện tích cây tràm và các cây công nghiệp khác. Muốn làm tốt cơ cấu kinh tế đó cần mở mang xây dựng kết cấu hạ tầng, đường, trường, trạm... Trong tổ chức phát triển sản xuất lấy hộ nông dân là đơn vị sản xuất tự chủ và tự hoạch toán sản xuất…

Phát triển văn hoá, xã hội với các nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục, chăm sóc sức khoẻ người dân và các gia đình có công với cách mạng. Công tác tuyên truyền theo hướng chiều rộng và chiều sâu. Giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và hệ thống chính trị, phát triển toàn diện mọi mặt đưa nghị quyết đi vào cuộc sống. Phát huy tinh thần đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân, tinh thần làm chủ của nhân dân. 

Nghị quyết của Chi bộ thật sự đưa đường lối đổi mới của đảng vào điều kiện cụ thể của địa phương, đưa xã thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Quá trình thực hiện đường lối đổi mới trải qua giai đoạn chuyển giao từ kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo sự quản lý nhà nước là quá trình đầy gian truân và cũng đầy thử thách. Xã Vĩnh Đại là một xã khó khăn của huyện với điều kiện cơ sở vật chất cũng như điều kiện tự nhiên khó khăn. Tuy nhiên, khi bắt tay vào thực hiện đường lối đổi mới bộ mặt của xã có những đổi thay nhanh chóng. 

Về phát triển kinh tế, lĩnh vực nông - lâm- ngư nghiệp phát triển với tốc độ khá nhanh. Vào năm 1988, diện tích canh tác được chuyển 100% sang 2 vụ với 720 ha, đến năm 1991 tăng 1.500 ha vượt chỉ tiêu nghị quyết 400 ha. Năng suất tăng, năm 1988 đạt 30 tạ/ha/vụ đến năm 1991 là 40 tạ/ ha/ vụ, tổng sản lượng lương thực năm 1991 là 12.000 tấn, đưa tổng lương thực bình quân đầu người là 3.500 kg/người. Bên cạnh trồng trọt, xã đã chú trọng phát triển chăn nuôi nhưng chủ yếu theo hộ gia đình, chủ yếu đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong từng hộ gia đình. 

Về lâm nghiệp, diện tích lúa 2 vụ tăng nên diện tích cây lâm nghiệp có giảm, cộng với nhu cầu về lương thực nên nhiều hộ nông dân phá tràm trông lúa. Năm 1991, diện tích tràm còn khoảng 2.700 ha, trong đó tràm đến tuổi khai thác là 1.500 ha. Bên cạnh trồng cây tràm nhân dân đã chú trọng trồng cây ăn trái với 100.000 cây, tuy nhiên do lũ lớn nên đã gây thiệt hại đáng kể. 

Phát triển ngư nghiệp, trong xã có 300 hộ nông dân cải tạo ao hồ nuôi cá. Hàng năm, lượng cá nuôi và sản lượng đánh bắt cá tôm tự nhiên đạt 45 tấn. Nhờ vậy, hàng năm nông dân trong xã góp phần tạo ra lượng thực phẩm để xuất khẩu…

Trên lĩnh vực kinh tế, sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp đã tăng đáng kể nhất là trong sản xuất nông nghiệp, vượt chỉ tiêu nghị quyết đại hội đề ra. Nhưng trên lĩnh vực phát triển kinh tế chưa phát huy tối đa hiệu quả, chỉ mới chú trọng phát triển cây lúa, còn chăn nuôi và hoa màu chưa phát triển, việc phổ biến chuyển giao khoa học kỹ thuật vào sản xuất chưa kịp thời, nên năng suất và chất lượng chưa cao 

Để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội, xã chú trọng xây dựng kết cấu hạ tầng. Trong 4 năm qua, xã thi công 10 công trình thuỷ lợi bằng cơ giới và thủ công. Số lượng đào mới các công trình lớn và nhỏ đạt trên 800.000 m3, trị giá trên 800 triệu đồng, số vốn chủ yếu do nông dân đóng góp. Xã đã hoàn thành hệ thống kênh mương đáp ứng tưới tiêu cho 1.500 ha cây lúa 2 vụ. Về giao thông nông thôn, có 2/3 đường lộ trong xã liên thông suốt còn 1/3 là do ngập nước và rừng nên một số đường lộ vẫn chưa lưu thông được. Hệ thống cầu đường dần dần được hoàn chỉnh đảm bảo cho trẻ em đến trường, người dân đi lại được thuận lợi. Giao thông thuỷ lợi phát triển đến đâu xã quy hoạch bố trí lại dân cư đến đó. Phần lớn nông dân sinh sống trên các bờ kinh có quy hoạch cơ bản, vuông vườn, nhà cửa thể hiện vẻ đẹp ở nông thôn vùng thấp (vùng lũ). Xây dựng nhà ở cho dân, có 5% xây dựng cơ bản 10%-15% xây dựng bán cơ bản, còn lại là cột tràm chôn chân lợp lá, mặc dù vậy nhưng dân ngày càng chú trọng hơn trong việc xây cất nhà cửa, ổn định cuộc sống. 

Do thay đổi cơ chế quản lý kinh tế, các tập đoàn sản xuất chỉ còn chức năng thu nợ, xây dựng kế hoạch quy hoạch đồng ruộng. Nắm bắt mục tiêu nhiệm vụ mới Chi bộ chuyển hướng chỉ đạo lấy hộ nông dân là đơn vị sản xuất tự chủ, tự hoạch toán sản xuất nên tốc độ phát triển kinh tế nhanh, nhiều hộ đã vươn lên làm giàu chính đáng. Đến năm 1991, xã có khoảng 20% hộ giàu, 30% khá, đủ vốn cho sản xuất và có tích lũy, còn lại 50% số hộ thiếu vốn cho sản xuất (trong đó 30% hộ thiếu ít vốn cho sản xuất còn lại 20% hộ nghèo). 50% số hộ đủ vốn có tích lũy, đâu tư mua tư liệu sản xuất, như máy cày, máy xới, máy tuốt, 50% hộ có xuồng máy bơm nước. Đời sống nhân dân đã ổn định và được nâng lên nhưng phát triển không đều, số hộ giàu lên rất nhanh, số hộ nghèo ngày càng khó khăn, do vậy xã nên có nhiều biện pháp giúp đỗ, ưu tiên, tạo điều kiện để các hộ nghèo vươn lên. 

Văn hoá xã hội, đời sống tinh thần của người dân có nâng lên, hàng chục gia đình có ti vi, cassette, số người thưởng thức giá trị tinh thần tăng lên, sự nghiệp giáo dục được chú ý hơn, đã đầu tư xây dựng điểm trường cấp II và 4 điểm trường còn lại, dụng cụ dạy và học được đầu tư, chất lượng giáo dục khá hơn. Tuy nhiên còn nhiều em trong độ tuổi vẫn chưa được đến trường, số lượng học sinh giảm do một số em gia đình nghèo nên nghỉ học. 

Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được Chi bộ quan tâm. Nhân viên y tế luôn trực trạm để phục vụ tốt cho nhân dân, thực hiện tiêm phòng cho trẻ em, vận động nhân dân thực hiện kế hoạch hoá gia đình. Nhưng trạm y tế còn trong tình trạng thiếu thốn về cơ sở vật chất, thuốc men và dụng cụ. Chăm lo cho gia đình trong diện chính sách tốt hơn, thăm hỏi, tặng quà và có chính sách đối với những người neo đơn, tàn tật, gia đình có con em đang phục vụ tại ngũ gặp khó khăn. 

Về an ninh, quốc phòng. Lực lượng quân sự, công an luôn được củng cố nâng cao chất lượng công tác, kết hợp chặt chẽ, thường xuyên giữ vững an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội. Công an xã kết hợp công an huyện thực hiện chống buôn lậu qua biên giới, đã bắt giữ 1.500 cây thuốc lá ngoại. Xã xây dựng tổ dân quân tự quản, đã có hàng trăm hộ gia đình đăng ký gia đình an toàn. Lực lượng dân quân tự vệ được củng cố, tổ chức và huấn luyện đầy đủ.

Qua các nhiệm kỳ, Chi bộ luôn luôn quán triệt tinh thần xây dựng, củng cố, chỉnh tốn đảng, chất lượng hoạt động của Chi bộ và đảng viên có nâng lên hoạt động đều hơn. Tác phong lãnh đạo, lề lối làm việc của cán bộ, đảng viên đảm bảo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, sát thực tế sát dân, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của quần chúng nên trong lãnh đạo điều hành của cấp uỷ, chính quyền được dân tin tưởng. Chi uỷ duy trì chế độ sinh hoạt định kỳ, quán triệt nghị quyết của cấp trên kịp thời, phê phán những tư tưởng lạc hậu, sai trái, không còn tình trạng chồng chéo trong lãnh đạo. Qua kiểm điểm phân loại đảng viên có 60% đảng viên vững mạnh, Chi bộ đạt loại khá. 

Hội đồng nhân dân hoạt động định kỳ, theo quy định đã thể hiện được chức năng là cơ quan đại diện cho quyền lợi của người dân. Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân xã có mối quan hệ làm việc chặt chẽ. Uỷ ban nhân dân làm việc đều có kế hoạch có sự thống nhất của tập thể. Các ngành làm tốt công tác tham mưu, giải quyết công việc có chất lượng. Đối với hoạt động của các đoàn thể còn hạn chế ở việc chưa đều, việc tập hợp các hội viên chưa đầy đủ nên chưa phát huy hết chức năng nhiệm vụ trong điều hành và sức mạnh đoàn kết của người dân. 

Vĩnh Đại đang đi những bước đi đầu tiên trên con đường đổi mới, bước đầu khi tiếp cận cơ chế quản lý mới còn gặp những khó khăn. Chỉ một thời gian ngắn, Chi bộ đã có sự chỉ đạo đi đúng hướng, quá trình phát triển thu lại kết quả khá rõ nét. Điều đó được chứng minh qua kết quả đạt được trong phát triển kinh tế nông - lâm - ngư nghiệp, những chỉ tiêu đều vượt, đảm bảo cho nhu cầu người dân và xuất khẩu, tạo điều kiện cho những hộ dân có vốn mở rộng sản xuất, tận dụng nguồn lực hiện có và thu hút vốn nơi khác. 

Việc đầu tư cho các công trình trọng điểm đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Việc quy hoạch hệ thống thuỷ lợi làm nhiệm vụ tưới tiêu cho toàn bộ diện tích đất canh tác là một thành quả lớn. Bố trí dân cư được hợp lý phù hợp với phát triển kinh tế và xây dựng nông thôn mới. 

Đời sống vật chất và tinh thần của người dân tương đối ổn định, có phần được nâng lên, kinh tế hộ phát triển, từ liệu sản xuất từng bước được giải phóng sức lao động của người dân và nâng cao năng suất lao động. An ninh chính trị trật tự an toàn xã hội được giữ vững, nhân dân yên tâm sản xuất, tính dân chủ trong nhân dân được phát huy, nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng.

2. Chi bộ xã Vĩnh Đại phát huy kết quả đạt được tiếp tục chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội (1991-1996). 

Sau 5 năm phát triển theo đường lối đổi mới (1986- 1991), xã Vĩnh Đại đã có những thành tựu nhất định trên các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội bước vào nhiệm kỳ mới Chi bộ xã Vĩnh Đại quyết tâm thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước ta trong tình hình mới mà Đại hội toàn quốc lần thứ VII (6/1991). Đại hội Chi bộ xã Vĩnh Đại nhiệm kỳ (1991-1993) được tiến hành, Đại hội Chi bộ xã Vĩnh Đại diễn ra trong điều kiện đường lối, chủ trương chính sách mới được hợp lòng dân và nhân dân tin tưởng thực hiện. Đại hội bầu cấp uỷ gồm 5 đồng chí: Nguyễn Minh Công làm Bí thư chi bộ, Phạm Văn Nhựt - Phó Bí thư; Trương Văn Út - Chi uỷ viên, Chủ tịch UBND; Lý Văn Dầy - Chi uỷ viên, Phó Chủ tịch UBND; Lưu Thanh Bình - Chi uỷ viên, Trưởng công an. 

Các nguồn lực như đất đai, lao động còn nhiều, cơ sở vật chất đã khá hơn. Tuy nhiên xã còn nhiều khó khăn, đời sống của một bộ phận nhân dân chưa ổn định, thiếu vốn sản xuất, tình hình kinh tế - xã hội nhìn chung còn khó khăn. Căn cứ vào tình hình trên Chi bộ xã xây dựng nhiệm vụ, mục tiêu nhiệm kỳ (1991-1993):

Vượt qua khó khăn, thử thách, đẩy mạnh sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp toàn diện, đồng bộ, từng bước ổn định đời sống nhân dân. Thực hiện thu các nguồn thu cũ và tạo ra nguồn thu mới từ sản phẩm nông - lâm nghiệp. Thực hiện tốt chính sách xã hội và công bằng xã hội, đảm bảo nâng lên một bước đời sống tinh thần của người dân. Song song với thực hiện nhiệm vụ về kinh tế - xã hội thực hiện tốt 2 nhiệm vụ chiến lược là giữ gìn an ninh trật tự và an toàn xã hội. Chăm lo công tác củng cố tổ chức bộ máy, điều hành công việc của xã trong tình hình mới. 

Chi bộ đưa ra một số nhiệm vụ mục tiêu cụ thể trên cơ sở nhiệm vụ chung. Phát triển nông nghiệp toàn diện, đồng bộ áp dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất, cây trông vật nuôi. Phấn đấu đưa diện tích đất canh tác 2 vụ 1.500 ha, năng suất bình quân cả năm 8 tấn/ha, tổng sản lượng lương thực đạt 14.200 tấn, lương thực bình quân đầu người đạt 3.900 kg/người/năm vào năm 1993. Trong chăn nuôi giữ lại 10 đôi trâu cày giải quyết sức kéo, phát triển đàn heo 700 con (mỗi gia đình nuôi từ 1-2 con heo), khuyến khích nhân dân phát triển vịt đàn. Về lâm nghiệp ổn định cây tràm, năm 1993 xoá bỏ diện tích hoang hoá, phấn đấu mỗi năm trồng mới 2 triệu cây lâm nghiệp các loại. Ngư nghiệp với việc nạo vét 300 ao nuôi cá, sản lượng nuôi cá các loại hàng năm đạt 55 tấn. Chú ý phát triển kinh tế hộ gia đình, lấy hộ nông dân là đơn vị sản xuất tự chủ, theo mô hình VAC, phấn đấu đến năm 1993 phần lớn hộ nông dân đều có vốn sản xuất. 

Xây dựng một số cơ sở vật chất, nạo vét các con kênh, các con lộ trong xã, mỗi năm xây mới 01 điểm trường, trạm xá, trụ sở làm việc. Lãnh đạo nhân dân từng bước, phấn đấu 30%-35% hộ gia đình xây dựng cơ bản nhà ở. Quy hoạch bố trí lại dân cư theo hướng vừa thuận lợi cho phát triển kinh tế vừa quản lý xã hội trên cơ sở xây dựng nông thôn mới. 

Trong phát triển kinh tế - xã hội mở rộng và phát huy quyền làm chủ trong nhân dân, đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân. Phấn đấu xoá nạn mù chữ trong nhân dân từ độ tuổi từ 15-45 tuổi. Giảm tỷ lệ sinh đẻ có kế hoạch xuống còn 2,1%. 

Xây dựng kinh tế phải gắn chặt với an ninh quốc phòng, cần thiết là phải vận động cho được phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, phong trào toàn dân làm quốc phòng, phấn đấu đạt 100% chỉ tiêu tuyển quân. 

Tăng cường mối quan hệ làm việc thống nhất giữa cấp uỷ, uỷ ban và các đoàn thể với nhân dân, xây dựng Đảng mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phấn đấu đạt Chi bộ trong sạch vững mạnh. 

Sau khi Nghị quyết được thông qua, đại hội giao cho cấp uỷ tổ chức quán triệt cho các đoàn thể, cho cán bộ công nhân viên và toàn thể nhân dân. Các ngành cụ thể hoá nghị quyết thành kế hoạch, chương trình hành động và tổ chức thực hiện. Đến thời điểm này đường lối đổi mới của Đảng đã được xã thực hiện, vận dụng sáng tạo vào điều kiện tình hình của xã trong các chính sách về kinh tế - xã hội. Đường lối đổi mới của Đảng đã được Chi bộ vận dụng vào điều kiện địa phương và được phát huy ngày càng rõ rét đến năm 1993 khi Chi bộ tiến hành đại hội nhiệm kỳ (1993-1995). Nghị quyết của Chi bộ thể hiện bước trưởng thành của mình trong chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tiếp thu sự chỉ đạo của Trung ương và của tỉnh thể hiện qua Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết 02 của Tỉnh uỷ và Chương trình hành động của Huyện uỷ về nhiệm vụ đổi mới xã, phường vững mạnh về mọi mặt kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng, sắp xếp lại bộ máy tổ chức của Đảng và xây dựng chỉnh đốn lại trật tự kỷ cương trong Đảng một cách trong sạch và lành mạnh. 

Chi bộ xác định nêu cao vai trò nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, giữ vững an ninh chính trị là trọng tâm, nhiệm vụ xây dựng Đảng là then chốt. Xây dựng Đảng chi bộ xác định cả hai mặt: vừa đổi mới vừa chỉnh đốn trên mọi lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tổ chức, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Chi bộ nói chung và từng đảng viên nói riêng, thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Nâng cao phương thức lãnh đạo công tác quần chúng, thực hiện tính công bằng trong tổ chức nội bộ và quần chúng nhân dân. 

Phát huy truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội nhân dân xã Vĩnh Đại luôn gắn liền đi theo con đường cách mạng, xây dựng xã hội chủ nghĩa theo đúng chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước để ra chung sức, chung lòng góp sức người và của để xây dựng xã ngày một đi lên. Năm 1995, qua hai nhiệm kỳ tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, xây dựng xã vững mạnh trong tình hình mới đạt nhiều kết quả quan trọng. 

Nhiều năm qua cấp uỷ, chính quyền xã luôn xác định trong phát triển kinh tế là nông - lâm - ngư nghiệp, từ đó cấp uỷ luôn khuyến khích nhân dân mở rộng diện tích phát triển cây lúa 2 vụ với những vùng đất phù hợp để sản xuất có năng suất cao. Năm 1993, diện tích canh tác là 2.000 ha, năng suất cả năm đạt 3,5 tấn/ha, bình quân thu nhập đầu người là 3 tấn/người, đến năm 1994 diện tích tăng 2.200 ha, năng suất bình quân là 3,8 tạ/ha, thu nhập bình quân đầu người là 3,4 tấn/người. Các chi tiểu đạt được đều vượt kế hoạch nghị quyết đề ra gần 40%. Song song với sản xuất, chi uỷ vận động nhân dân tự lực đào đắp được nhiều công trình thuỷ lợi tạo được nguồn nước tưới tiêu cho cây lúa 2 vụ như kênh Đòn Dong (còn gọi là kênh 30/4), kênh Hai Bảy tháng Bảy, kênh Hai Sáu tháng Ba, kênh Mười Chín tháng Năm, kênh Cả Cạy... trị giá các công trình trên 288 triệu đồng với khối lượng là 144.000 m3 và vận động nhân dân nạo vét được 1 công trình xuống cấp với số tiền là 40 triệu đồng 

Chăn nuôi được chi bộ xác định là tiền đề góp phần vào phát triển kinh tế gia đình, nâng thu nhập của từng hộ gia đình, đàn gia súc, gia cầm của xã được phát triển. Toàn xã có 210 hộ nông dân cải tạo ao hồ nuôi cá. Hàng năm lượng cá nuôi và sản lượng đánh bắt cá tự nhiên đạt 20.120 kg đồng thời chú trọng đến việc phát triển kinh tế phụ gia đình theo mô hình RVAC. Trong phát triển tiểu thủ công nghiệp xã mới có những cơ sở sửa chữa, nhà máy xay xát nhỏ lẻ chưa đáp ứng yêu cầu của nhân dân. 

Về lâm nghiệp, do diện tích cây lúa phát triển nên diện tích cây tràm tụt giảm, khâu quản lý còn lỏng lẻo, việc khai thác còn tùy tiện khá phổ biến, trong toàn xã cây tràm còn 2.297 ha trong đó tràm đến độ tuổi khai thác là 600 ha, số còn lại hàng năm vào đợt nắng hạn xã bố trí quản lý trong việc phòng cháy. Chi bộ phát động nhân dân quy hoạch đối với từng vùng đất có độ phèn cao và phát động nhân dân trồng các loại cây phân tán có hiệu quả kinh tế như cây bạch đàn, nhiệm kỳ qua đã phát động trồng được 30.200 cây.

Từ những chủ trương thích hợp, đời sống nhân dân đã được nâng lên rõ rệt, đặc biệt hơn cấp uỷ lãnh đạo tốt công tác xóa đói giảm nghèo, tạo được nguồn vốn tư nhân cho nhân dân vay với lãi suất tương đối. Hơn nữa, cấp uỷ và chính quyền lãnh đạo nhân dân trong xã thực hiện vụ mùa tương ái trong đời sống, trong sản xuất, học hỏi rút kinh đồng - xuân đạt kết quả cao, vận động nhân dân tương thân nghiệm trong sản xuất tạo năng suất cao ít tốn kém. Với những chuyển biến đó đời sống nhân dân được phát triển đi lên. Tính đến năm 1995, toàn xã có 50% hộ có đủ vốn tái sản xuất, 30% đủ vốn sản xuất, còn 20% thiếu vốn hoàn toàn, trong toàn xã có trên 95% hộ có các phương tiện phục vụ cho nông nghiệp. 

Được sự quan tâm của cấp trên và chỉ đạo của Chi bộ, xã xây dựng trụ sở làm việc của cấp uỷ, uỷ ban cùng với 3 điểm trường trong đó 2 cơ bản và 1 bán cơ bản trị giá các công trình là 150 triệu đồng. Đầu tư xây dựng thêm các điểm trường trong điều kiện đi lại gặp khó khăn và ở từng khu vực có số học sinh tương đối với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Trong xây dựng giao thông, Chi bộ động viên nhân dân xóa toàn bộ câu khỉ (xóa được 95%) và trục lộ giao thông nông thôn nối liền qua các ấp đi lại thuận tiện nhất là cầu kênh Bảy Chín.

Hằng năm Chi uỷ quán triệt về thu - chi ngân sách của cấp trên đề ra, thu đủ chỉ đủ. Năm 1994, tổng thu ngân sách là 97.982.496đ, tổng chi 97.282.496đ, bội chi 700.000₫. Chi bộ quán triệt sâu sắc trong dân làm nghĩa vụ đối với nhà nước, nên nhiệm kỳ qua đạt kế hoạch chỉ tiêu trên giao về thuế nông nghiệp, thuỷ lợi phí, thuế nhà đất... 

Phát triển văn hoá, xã hội được xác định là mục tiêu Quan trọng trong mọi mặt đười sống xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngành giáo dục được quan tâm nhất là tạo quan trọng trong mọi mặt đời sống xã hội theo định hướng điều kiện về nơi ăn, chốn ở của thầy cô giáo, để đảm bảo việc giảng dạy cho con em. Vận động các bậc cha mẹ có ý thức với con em bỏ học và đưa con em đến độ tuổi cắp sách đến trường. Vì thế, trong những năm qua kết quả dạy và học được đảm bảo tốt, số lượng học sinh bỏ học trong toàn xã giảm xuống còn 7% và hàng năm địa phương tuyển chọn được học sinh giỏi thi tuyển cấp huyện đạt chất lượng cao. Vận động nhân dân có lối sống lành mạnh, triệt để nghiêm cấm sử dụng văn hoá phẩm đồi trụy, Chi uỷ chỉ đạo ngành văn hoá thông tin thường xuyên theo dõi, kiểm tra các điểm chiếu video... từ việc quản lý chặt chẽ nên trong 2 năm 1993, 1994 xã Vĩnh Đại không có trường hợp nào xảy ra. 

Y tế được chỉ đạo kịp thời nhất là việc ngăn ngừa bệnh dịch lây lan, thực hiện tốt nhiều đợt tiêm chủng mở rộng. Tăng cường công tác khám và điều trị bệnh. Năm 1993, khám và điều trị bệnh được 380 lượt người, năm 1994 được 420 lượt người. Thường xuyên tăng cường công tác truyền thông dân số - kế hoạch hoá gia đình có kết quả cao vượt chỉ tiêu đề ra, giảm tỷ lệ sinh đẻ từ 3,5% xuống còn 2,6%.

Các chính sách thương binh, xã hội được Chi uỷ lãnh đạo một cách tích cực, quan tâm đến các gia đình thương binh, bệnh binh, các gia đình liệt sĩ neo đơn, coi trọng đến công tác “đền ơn đáp nghĩa”. Trong 2 năm 1994, 1995 ngành thương binh - xã hội xã làm xong 4 hồ sơ và được cấp trên phong tặng “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Bên cạnh làm tốt chế độ khen thưởng cho 3 thời kỳ, xã tổ chức ôn lại truyền thống của các ngày lễ lớn nhằm nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức cách mạng cho nhân dân. 

Công tác tuyên truyền được đẩy mạnh, những chủ trương chính sách kịp thời phổ biến cho nhân dân, triển khai việc thực hiện nếp sống văn minh gia đình văn hoá mới, giữ gìn vệ sinh môi trường. Toàn xã đã có 40 hộ nhân dân có các phương tiện nghe nhìn như: ti vi, cassette, radio... bộ mặt địa phương được đổi mới. 

Lãnh đạo an ninh quốc phòng là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng đặc biệt, Chi bộ lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện tốt công tác toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc, chống buôn lậu. Ngành Công an cùng với Quân sự xã đã củng cố và tổ chức được 2 ban và 15 tổ tự quản ở các ấp, củng cố lực lượng dân quân tự vệ có 52 đồng chí, thành lập được 1 tiểu đội dân quân tự vệ nữ. Xã tổ chức được 1 cuộc diễn tập kế hoạch A2 có trên 100 lượt người tham dự, đặc biệt có 25 quần chúng tham gia. Từ những củng cố trên, công an xã thường xuyên tuần tra, cảnh giác, ngăn ngừa tội phạm xảy ra, kiểm tra tạm vắng, tạm trú. Hàng năm, Chi bộ đêu lãnh đạo tốt 100% công tác tuyển quân trên giao (năm 1993 có 4 thanh niên, năm 1994 có 4 thanh niên, năm 1995 có 3 thanh niên). Hoạt động nội chính được giữ vững và ổn định, phát huy vai trò trách nhiệm xử lý hành vi tiêu cực, phạm pháp đúng người, đúng tội, đúng luật định, các đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân đảm bảo công bằng xã hội. 

Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, xây dựng Chi bộ mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Tổ chức quán triệt chủ trương chính sách của Đảng nhất là Nghị quyết TW3 Nghị quyết 02 của Tỉnh uỷ xuống tận cơ sở từ đó từng cán bổ đảng viên có ý thức trách nhiệm rõ rệt trong xây dựng xã phát triển toàn diện trong tình hình mới, chấp hành chủ trương, chính sách pháp luật của nhà nước. Trong tổ chức quán triệt Nghị quyết TW3 và Nghị quyết 02 của Tỉnh uỷ, đã có 27 đồng chí tham dự, tổ chức 3 cuộc sinh hoạt chính trị với 57 đồng chí tham dự; đội ngũ tuyên truyền viên tổ chức 12 cuộc họp dân với 219 lượt người học, đối với tổ chức quần chúng đã tổ chức 9 cuộc với 318 đoàn viên, hội viên cùng các ngành tham gia học tập. Kết quả 100% đảng viên có tư tưởng, ý thức tổ chức kỷ luật cao, hoàn thành nhiệm vụ được giao, luôn gương mẫu, được quần chúng tín nhiệm. 

Về công tác tổ chức và chỉnh đốn Đảng, Chi bộ xây dựng quy chế làm việc cụ thể, phân công rõ chức năng, nhiệm vụ của Chi bộ, của từng thành viên trong cấp uỷ, từng đảng viên xác định rõ mối liên hệ công tác lãnh đạo và chịu sự lãnh đạo của cấp uỷ và Uỷ ban nhân dân xã. Trong toàn xã Vĩnh Đại có 4 ấp, mỗi một ấp có 01 đồng chí đảng viên phụ trách và có trình độ, năng lực nhạy bén, thường xuyên nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để báo cáo về thường trực cấp uỷ xem xét giải quyết. Từ việc sắp xếp bộ máy nên hoạt động Chi bộ và đảng viên nâng cao chất lượng. Năm 1994, tổng số Chi bộ có 32 đảng viên trong đó đảng viên loại 1 là 15 đồng chí (46,9%), loại 2 là 16 đồng chí (50%), loại 3 có 1 đồng chí (3,1%) và Chi bộ được đánh giá đạt loại khá.

Khi tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân 3 cấp qua việc sắp xếp bộ máy tổ chức, các đại biểu được chọn ra ứng cử được nhân dân tín nhiệm với kết quả 100%. Đồng chí Nguyễn Minh Công - Bí thư chi bộ được huyện uỷ rút về trên và chỉ định đông chí Lê Phương Tâm là Chi uỷ viên, đồng thời bổ nhiệm đồng chí Phạm Văn Nhựt giữ chức vụ Bí thư xã. Trong cấp uỷ được phân công cụ thê, đồng chí Bí thư xã phụ trách chung, lãnh đạo và điều hành kiểm tra thực hiện, đông chí chủ tịch kiêm phó bí thư lãnh đạo Uỷ ban nhân dân xã, một đồng chí Chi uỷ viên phụ trách khối vận, một đồng chí Chi uỷ viên phụ trách xã hội và một đồng chí Chi uỷ viên là Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã.

Hội đồng nhân dân xã có 20 đồng chí, Uỷ ban nhân dân có 7 đồng chí hoạt động hiệu quả, nhịp nhàng. Mặt trận Tổ quốc xã và các đoàn thể có 5 đồng chí, đã bầu xong Ban Chấp hành và hoạt động đi vào nề nếp. Hội Phụ nữ có 12 tổ và 322 hội viên, Thanh niên có 4 Chi đoàn ở 4 ập, Nông dân có 15 tổ có 111 hội viên. Các phong trào do các đoàn thể phát động đều đạt kết quả cao và được nhân dân tham gia nhiệt tình. Cấp uỷ thường xuyên lãnh đạo kiểm tra Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân để xây dựng nghị quyết Chi bộ toàn diện. Hội đồng nhân dân tạo điều kiện tiếp xúc cử tri, giải quyết mọi thắc mắc của dân làm đúng theo quy định của pháp luật.

Chi bộ luôn đổi mới công tác lãnh đạo quần chúng, luôn kết hợp với các tổ chức mặt trận đoàn thể cũng như các ổ chức xã hội khác. Công tác vận động quần chúng luôn được coi trọng, là nhiệm vụ thường xuyên và liên tục, không xa rời quần chúng với phương châm “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý” và “lấy dân làm gốc” vì thế xa rời quần chúng với phương châm “Đảng lãnh đạo, nhân trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị địa phương được thuận lợi. 

Kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị từ năm 1991 đến năm 1995 được Chi bộ đánh giá khá cao. Lãnh đạo phát triển kinh tế đi lên đúng đắn phù hợp với lòng dân, khuyến khích và tạo điều kiện cho kinh tế nông thôn phát triển. Cuộc sống nhân dân đã nâng lên một bước, thu nhập đầu người ngày càng tăng lên, tạo công ăn việc làm cho nhân dân. Nhận thức người dân đã nâng lên một bước cao, kiên định vững vàng đường lối của Đảng, đánh bại mọi âm mưu diễn biễn hoa bình của địch. Tổ chức bộ máy trong cán bộ đảng viên được thống nhất, hoạt động có chất lượng cao. Xã Vĩnh Đại hoàn thành 4 ấp, mỗi ấp có 2 đồng chí là trưởng ấp và phó ấp tạo điều kiện cho Chị bộ lãnh đạo xây dựng xã vững mạnh về mọi mặt, là nhịp cầu nối liền trong mọi hoạt động có hệ thống gắn liền với sự truyền đạt chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng như các hoạt động khác giữa cấp uỷ, chính quyền đến nhân dân, từ đó hoàn thành và vượt chỉ tiêu Nghị quyết, tạo đà cho quá trình phát triển của xã ở giai đoạn sau. 

III. VĨNH ĐẠI TIẾP TỤC THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI GIAI ĐOẠN (1996-2010). 

1. Đảng bộ lãnh đạo nhân dân thực hiện tốt Nghị quyết nhiệm kỳ (1996-2000) và đề ra phương hướng nhiệm kỳ (2000-2005). 

Bước vào năm 1996, tình hình của huyện và xã nhiều nao mặt thuận lợi. Nghị quyết Đại hội của Huyện Đảng bộ phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Chi bộ xã đánh giá lại kết quả thực hiện nghị quyết trong thời gian qua để định hướng cho nhiệm kỳ tiếp theo. Trong lãnh đạo phát triển kinh tế đi đúng hướng, thường xuyên quan tâm đến nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp, nguồn lương thực dồi dào, nông dân có vốn sản xuất. Trong nông nghiệp đã có sự chuyên dịch cơ câu cây trồng, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Việc đầu tư vét, quy hoạch lại các công trình thuỷ lợi đã đáp ứng và phù hợp với việc phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới. Đời sống vật chất và tinh thần được ổn định nâng lên một bước, kinh tế hộ nông dân được phát triển tương đối. Bên cạnh đó còn một số hạn chế được Chi bộ đưa ra cần khắc phục. Nông nghiệp có phát triển nhưng chưa toàn diện, còn chưa chú trọng đến cây hoa màu, công tác phổ cập giáo dục và xóa mù chữ kết quả chưa cao, y tế chưa đủ đáp ứng nhu cầu của nhân dân, chưa cân bằng phát triển kinh tế và phát triển văn hoá xã hội. Bên cạnh đó xã thường xuyên bị ảnh hưởng của lũ làm hạn chế rất nhiều đến kinh tế - xã hội. 

Từ những đánh giá Chi bộ đã nêu rõ quan điểm phát huy những thành tựu đạt được khắc phục khó khăn đề ra phương hướng, nhiệm vụ Nghị quyết của Chi bộ nhiệm kỳ (1996-2000). Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 6 đồng chí: Phạm Văn Nhựt - Bí thư; Nguyễn Văn Ước - Phó Bí thư, Chủ tịch UBND, Lý Văn Dày - Chi uỷ viên, Phó Chủ tịch UBND, Lê Phương Tâm – Chi ủy viên, Phó Chủ tịch UBND, Phạm Văn Dững - Chi uỷ viên, Trưởng công an, Dương Văn Dũng - Chi uỷ viên, xã đội trưởng. Ngày 26/6/1998, Đại hội Chi bộ xã Vĩnh Đại giữa nhiệm kỳ được tổ chức. Đại hội có 32 đại biểu tham dự trong đó có 29 đảng viên và 2 đảng viên dự bị, đại hội quyết nghị bổ phương hướng từ năm 1998-2000. 

Chi bộ chỉ rõ nhiệm vụ chung là khắc phục khó khăn, phát huy thế mạnh của xã trên lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp gắn liền với phát triển văn hoá, xã hội và an ninh quốc phòng; vận dụng khoa học kỹ thuật chuyển dịch cơ cấu cây trồng tạo ra chuyển biến mới trong phát triển kinh tế. Đề cao công tác chỉnh đốn Đảng và đưa ra mục tiêu cụ thể trên các lĩnh vực phấn đấu đến năm 2000. 

Phải tập trung phát triển nông nghiệp một cách mạnh mẽ và đồng bộ, áp dụng đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất cho phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương. Đưa diện tích cây lúa năm 1998 là 2.600 ha đến năm 2000 là 3.000 ha và không còn diện tích đất hoang hoá; năng suất bình quân đến năm 1998 là 8,8 tấn/ha, thu nhập bình quân đầu người là 4.700 kg/người, năm 2000 năng suất cả năm đạt 9 tấn - 9,5 tấn/ ha, thu nhập bình quân đầu người đến năm 2000 đạt từ 5.500 kg - 6.000kg/người. Về chăn nuôi phát triển đều đặn, mỗi gia đình có 1-2 con heo, toàn xã có từ 3.500 - 4.000 con heo, sản lượng 240.000 tấn, phát triển vịt đàn từ 20.000 - 30.000 con.

Lâm nghiệp, ổn định cây tràm với những vùng đất bị nhiễm phèn và khu vực không có điều kiện phát triển đến cây lúa. Năm 1998, có 600 ha tràm đến tuổi khai thác, đến năm 1998 trồng mới 3 triệu cây, năm 2000 là 6 triệu cây. 

Ngư nghiệp, sản lượng cá nuôi đến năm 2000 phải đạt trên 40 tấn, đánh bắt cá tự nhiên đạt 20 tấn, 60 tấn các loại. 

Đến năm 2000 phải có 100% hộ có vốn sản xuất, lấy hộ nông dân làm đơn vị sản xuất tự chủ. Khai mở các công mình thiết yếu có điều kiện tăng trưởng diện tích nông nghiệp, quy hoạch vùng đất kênh 20/3 để phát triển tăng 3 vụ. Giao thông được thông suốt nối liền các ấp, xây dựng các cầu thiết yếu; hàng năm xây dựng mới từ 2-3 điểm trường; xây dựng trạm xá, phấn đấu năm 2000 có 50% số hộ xây dựng nhà ở cơ bản. Hoàn chỉnh khu dân cư nằm trên các trục kênh phù hợp với bộ mặt văn hoá của xã. 

Trên lĩnh vực văn hoá, xã hội, đến năm 1998 xã đã xóa mù chữ cho nhân dân, 90%-95% trẻ em đến tuổi được đi học, hạn chế 2,5% trẻ em bỏ học, nâng cao chất lượng giảng dạy của thầy cô giáo. Hoàn chỉnh hệ thống y tế công cộng đảm bảo chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, giảm tỷ lệ gia tăng dân số còn 1,5%. Giữ gìn an ninh quốc phòng, xây dựng tốt lực lượng dân quân tự vệ, đảm bảo huấn luyện đạt 3,5 % dân số, tuyển quân đạt 100% chỉ tiêu. 

Xây dựng Đảng mạnh 3 mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đến năm 2000 phát triển từ 15 đồng chí - 20 đồng chí đảng viên, 100% đảng viên đạt trong sạch và chi bộ đạt trong sạch vững mạnh. Tăng cường sức mạnh hoạt động chính quyền, đoàn thể và của hệ thống chính trị, làm tham mưu tốt cho Chi uỷ bằng những nghị quyết, chương trình hành động, phấn đấu đạt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra. 

Muốn thực hiện tốt nghị quyết của Chi bộ cụ thể là những chỉ tiêu đề ra, Chi bộ tiến hành triển khai sâu rộng đến quần chúng nhân dân, có kế hoạch hoạt động theo từng tháng, quý, năm và được cụ thể hoá nghị quyết và đưa nghị quyết thành hành động của các ngành. Sau Đại hội Chi bộ phát động phong trào thi đua của các ngành, các cấp, phong trào lao động sản xuất của nhân dân thực hiện thắng lợi nghĩ quyết đề ra, xây dựng xã Vĩnh Đại là một trong những xã vững mạnh toàn diện, góp phần vào sự phát triển chung của toàn huyện. 

Từ Chi bộ xã Vĩnh Đại đã phát triển thành Đảng bộ xã, chứng tỏ sự trưởng thành của tổ chức đảng, tạo nên sức mạnh tổng hợp, động lực lãnh đạo nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị. Đến năm 2000, xã đã đạt được nhiều thành tựu lớn trên nhiều mặt tạo thế và lực cho xã vững bước tiến vào thế kỷ XXI. Trên lĩnh vực phát triển kinh tế. Với đặc điểm kinh tế được xác định phát triển nông nghiệp là chính, ngay từ đầu nhiệm kỳ Đảng bộ đẩy mạnh và tập trung cho nông nghiệp, đưa những tiến bộ khoa học vào sản xuất, cải tạo đồng ruộng, xóa dần diện tích hoang hoá. Vì vậy, diện tích nông nghiệp được tăng dần theo hàng năm, cụ thể đến năm 2000 tổng diện tích lúa 2 vụ toàn xã là 4.396 ha vượt chỉ tiêu so với nghị quyết, năng suất cả năm 8,8 tấn đạt (100% nghị quyết), tổng sản lượng là 38.684 tấn bình quân đầu người là 7,2 tấn/người (đạt 153% so với nghị quyết). Trong những năm qua Đảng bộ luôn quan tâm đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp chú trọng đến vấn đề chọn giống cho phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng ở địa phương, kháng sâu bệnh cho năng suất cao, toàn xã có cơ cấu giống mới đạt 96%. Hàng năm, xã cho mở nhiều lớp IPM được hơn 200 nông dân tham dự để áp dụng tiến bộ khoa học vào đồng ruộng. Bên cạnh trồng trọt, chăn nuôi nay được chú ý hơn, với việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi nên số lượng gia súc, gia cầm tăng. Bình quân mỗi hộ nuôi 1-2 con heo, có những hộ nuôi 60-70 con. Chăn nuôi kết hợp với mô hình VẠC mang lại kết quả cao. Việc nuôi cá hồ có năm không ổn định do giá cả, và nguồn thức ăn không ổn định.

Phát triển lâm nghiệp, diện tích cây tràm luôn biến động theo năm, tận dụng diện tích phèn nặng và những diện tích không sản xuất lúa phát triển trồng cây lâm nghiệp. Tổng diện tích cây tràm là trên 2.888 ha vượt 44% kế hoạch, số tràm đến tuổi khai thác là 1.000 ha vượt 66% kế hoạch. Ngoài việc khai thác thích hợp cây lâm nghiệp, xã chú trọng việc quản lý khai thác và phòng chống cháy, đồng thời trồng cây phân tán, bình quân mỗi năm trồng 30.000 cây - 40.000 cấy chú trọng trồng những tuyến nội đồng và khu vực đê bao. 

Nhằm góp phần vào sự phát triển kinh tế của xã, hoạt động tiểu thủ công nghiệp những năm qua đã phát huy và đạt một số kết quả. Hoạt động được ổn định, đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu trong sản xuất và tiêu dùng. Hoạt động thương mại như buôn bán phân bón, hàng nông phẩm, xay xát, sửa chữa cơ khí, gia công hàng mộc và các dịch vụ nhỏ lẻ khác cũng từng bước được nâng lên cả về hoạt động và chất lượng phục vụ.

Kinh tế nông nghiệp phát triển phần lớn nhờ vào việc Đảng uỷ xã cho tăng cường xây dựng hệ thống thuỷ lợi nội đồng. Nhiệm kỳ qua sự nỗ lực của Đảng bộ và vốn tự lực trong dân đã tiến hành nạo vét 7 công trình, tổng cộng khối lượng 104.600 m3 với tổng kinh phí 227.860.000 đ, được cấp trên hỗ trợ 819 triệu đồng quy hoạch đê bao, hỗ trợ 950 triệu đồng nạo vét 8 km tuyến kinh ngang, vận động nhân dân san lấp mặt bằng lộ kinh ngang với kinh phí 245 triệu đồng. Xây dựng hệ thống giao thông đã làm cho bộ mặt nông thôn được thay đổi từng ngày, xây dựng 4 cây cầu với trọng tải 1-2 tấn và sửa chữa một số tuyến đường bộ tạo thuận lợi cho nhân dân đi lại vào mở mang kinh tế giữa các vùng lân cận. 

Như vậy, với các chỉ tiêu trên lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp cho thấy nhiệm kỳ (1996-2000), Đảng bộ lãnh đạo nhân dân phát triển toàn diện, mọi mặt đạt và vượt chỉ tiêu đề ra, nổi bật lên là việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, áp dụng khoa học và kỹ thuật vào sản xuất, mở mang nông thôn, phát huy được tiềm năng thế mạnh nguồn tài nguyên thiên nhiên nhất là diện tích đất đai. 

Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, Đảng bộ xây dựng xã vững mạnh mọi mặt, từ đó tạo được bước chuyển biến trong lĩnh vực giáo dục ở cơ sở. Cụ thể, số học sinh đến lớp tăng dần theo năm, sĩ số học sinh huy động ở mỗi cấp đều đạt từ 98% - 100% của mỗi năm học và số học sinh ra lớp đạt 100% chỉ tiêu nghị quyết. Chất lượng giáo dục nâng lên, số học sinh khá năm sau cao hơn năm trước, tỷ lệ bỏ học giảm từ 9,4% năm 1994-1995 xuống còn 5% vào năm học 1999-2000. Năm 1997, công tác phổ cập xoá mù chữ được hoàn thành. Kết quả khả quan trên lĩnh vực giáo dục còn thể hiện sự kết hợp thống nhất giữa 3 môi trường giáo dục và sự quan tâm đóng góp một phần không nhỏ của nhân dân trong xã và sự nỗ lực phấn đấu của các em học sinh. Về Y tế, đảng uỷ kịp thời chỉ đạo trong công tác phòng và trị bệnh cho nhân dân, đây mạnh công tác khám và trị bệnh, xây dựng tủ thuốc. Trạm y tế đã khám và điều trị bệnh cho hàng trăm ngàn lượt người, tổ chức có hiệu quả chương trình y tế quốc điều trị cho 6 bệnh nhân phong và lao, công tác tiêm ngửa cho trẻ em hàng năm đều đạt kế hoạch 100%. Đảng uỷ xem công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình là một trong những nhiệm vụ chính trị nên hàng năm lãnh đạo ban ngành thực hiện tốt nhiệm vụ, giảm tỷ lệ gia tăng dân số xuống còn 2,02%. Chăm sóc và quan tâm đến trẻ em và thực hiện tốt chỉ đạo về vệ sinh môi trường và phòng bệnh.

Nhu cầu văn hoá và thể thao của nhân dân ngày càng được nâng lên, do đó xã đẩy mạnh các hoạt động như thông tin tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước, thu hồi và xử lý những băng hình có nội dung xấu. Trạm truyền thanh của xã phát sóng trên toàn địa bàn tại 4 điểm. Phong trào thể dục thể thao hàng năm được tổ chức chào mừng các ngày lễ lớn, tổ chức các giải bóng đá, bóng chuyền. Triển khai, thực hiện quy chế dẫn chủ cơ sở, cùng với phong trào xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá. Qua triển khai đã có 294 hộ đăng ký và có 255 hộ được công nhận gia đình văn hoá đạt 87%. 

Phát huy truyền thống uống nước nhớ nguồn Đảng uỷ xã đã thực hiện đúng chính sách với những người có công với cách mạng. Hàng tháng, quý, hàng năm đều chi trả cho độ chính sách kịp thời và đúng đối tượng. Vận động nhân dân và cán bộ đảng viên xây dựng nhà tình nghĩa, tình thương, nhiệm kỳ qua đã xây dựng 3 căn nhà tình nghĩa, 2 căn nhà tình thương và hiện đang xây dựng 6 căn nhà tình nghĩa cho các đối tượng chính sách, gia đình khó khăn. Ngoài ra, hàng năm, Đảng uỷ chỉ đạo thường xuyên thăm dò những phần mộ đã bị thất lạc để quy tụ về nghĩa trang. Qua nhiều năm tìm kiếm, đến năm 2000 đã mang về nghĩa trang trên 30 mộ, và 60 mộ về nghĩa trang của huyện Tân Hưng, đó là nỗ lực lớn của Đảng và chính quyền thể hiện truyền thống của dân tộc ta.

Đảng uỷ xã có nhiều chính sách và biện pháp để thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo, chăm lo đời sống người dân được tốt. Đã tạo công ăn việc làm cho 71 hộ nghèo giảm 68,9% hộ nghèo trong tổng số 103 hộ; xây dựng 1 dự án giải quyết việc làm cho 350 lao động với vốn vay 325.000.000 đồng, đến nay kết quả 31 hộ thoát nghèo. Qua khảo sát thực tế đến năm 2000, toàn xã có 30% hộ giàu, 62,8% hộ khá, 7,2% hộ nghèo. Do đó, công tác xoá đói giảm nghèo của xã đạt kết quả cao, là thành công lớn, quan trọng để đưa xã phát triển nhanh và bền vững. 

Để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, Đảng uỷ luôn quan tâm, tích cực xây dựng nền quốc phòng toàn dân, phát triển lực lượng dân quân tự vệ, đẩy mạnh công tác huấn luyện quân sự đạt 3,5% dân số, thường xuyên có 1 tiểu đội trực, 1 trung đội cơ động sẵn sàng chiến đấu. Hàng năm khám và tuyến quân đạt 100% chỉ tiêu trên giao, xử lý kịp thời những trường hợp không chấp hành Luật nghĩa vụ quân, thanh niên bỏ ngũ. Năm 1999, xã tổ chức diễn tập kế hoạch phòng thủ đạt kết quả cao, qua đợt diễn tập đã nâng lên một bước nhận thức về công tác chống bạo loạn và việc xử lý tình huống không sơ sót. 

Đảng uỷ không ngừng lãnh đạo về quốc phòng. tính đến năm 2000, ngành Công an đã xây dựng 6 ban, 36 tổ tự quản theo cụm dân cư và bố trí các phó ấp là công an viên để quản lý khu vực, qua nhiều năm ngành công an đã bắt 50 vụ chích điện đã thiêu huỷ và hoá giá bình, bắt các đối tượng truy nã từ nơi khác đến. Công tác phòng, chống buôn lậu được đề cao, năm 1999 đã bắt 5 vụ, thu giữ 3 xuồng, 3 máy xăng tổng trị giá trên 150.000.000 đồng. Ngành công an luôn phối hợp với các ban, ngành để xây dựng kế hoạch trấn áp các tội phạm, quản lý tạm trú, tạm vắng và xử lý các trường hợp tạm trú trái phép, bảo vệ tốt an ninh xóm ấp. 

Đảng bộ xã luôn xây dựng, củng cố hệ thống chính trị vững mạnh toàn diện để lãnh đạo phát triển xã nhà, phát huy vai trò đảng lãnh đạo đối với chính quyền và các đoàn thể, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Đảng uỷ thực hiện chỉ đạo của trên và vận dụng vào điều kiện cụ thể của xã. Các ngành, đoàn thể trên địa bàn được kiện toàn và đổi mới, dân trực tiếp bầu ra 12 trưởng, phó ấp và 6 ban, 36 tổ tự quản, thường xuyên triển khai các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến mọi tổ chức và tầng lớp nhân dân thông qua việc triển khai quy chế dân chủ. Đảng uỷ chú trọng đến đổi mới phương thức lãnh đạo, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của chính quyền, mặt trận và các đoàn thể thay đổi phương thức điều hành và lề lối làm việc, nhằm hạn chế tiêu cực gây phiền hà cho nhân dân. Việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở đã phát huy tích cực trong phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm với tỷ lệ 3/7 (nhà nước 3, nhân dân 7) đặc biệt có những công trình qua bàn bạc công khai được nhân dân đồng tình đóng góp 100% vốn như việc xây dựng các tuyến kinh nội đồng, lộ từ Uỷ ban nhân dân xã đi Trường Xuân (thuộc tỉnh Đồng Tháp). 

Trong những năm qua, Đảng uỷ từng bước xây dựng các nghị quyết, quy chế làm việc từng bước đưa chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân có chất lượng và hiệu quả cao, chỉ đạo Hội đồng nhân dân tiếp xúc định kỳ các đại biểu với cử tri, nhằm phát huy vai trò dân chủ trực tiếp thông qua dân chủ đại diện để tham gia xây dựng Đảng, chính quyền. 

Hoạt động của Uỷ ban nhân dân được hoạch định về quản lý nhà nước như chỉ đạo UBND xây dựng kế hoạch công tác, định kỳ giao ban giữa các thành viên, luôn gắn chặt mối quan hệ giữa nghị quyết Hội đồng nhân dân và kế hoạch của Uỷ ban nhân dân, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

Lãnh đạo về công tác Mặt trận và các đoàn thể, Đảng uỷ đã xây dựng hoàn chỉnh hệ thống mặt trận từ xã đến ấp, phát triển 6 ban và 17 thành viên, cùng với ban ngành xây dựng kế hoạch vận động nhân dân xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư. Các đoàn thể được kiện toàn và nâng cao chất lượng, đi vào hoạt động có nề nếp và đồng bộ. Xã đã có 58 tổ, 31 chi hội và 1.256 hội viên, gây quỹ giúp nhau làm kinh tế được 6.800.000 đồng. Ngoài ra còn thúc đẩy công tác từ thiện ở địa phương. Công tác thanh niên, Đảng uỷ đưa phương thức củng cố và phát triển mô hình lấy đảng viên trẻ, đoàn viên ưu tú làm nòng côt, tập hợp thanh thiếu niên nên đoàn viên xây dựng được 8 chi đoàn 85 đoàn viên. 

Đẩy mạnh công tác chính trị tư tưởng bằng nhiều hình thức như triển khai và học tập các nghị quyết của cấp trên, Nghị quyết đại hội của Đảng lần thứ VIII và các nghị quyết chuyên đề, tạo điều kiện cho 100% đảng viên tham gia học lý luận chính trị, tập huấn các chương trình về quản lý nhà nước, từ đó tạo được sự nhận thức đúng đắn về quan điểm lập trường giai cấp. Toàn đảng viên luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tham gia sinh hoạt theo đúng quy chế. Mối quan hệ giữa các đảng viên với Đảng uỷ gắn bó và thống nhất. 

Bước vào thế kỷ XXI với nhiều thời cơ và thách thức mới, Đảng bộ xã Vĩnh Đại luôn xác định rõ mục tiêu nhiệm vụ cùng với những cố gắng của toàn quân và dân. Đảng uỷ xã phân tích rõ tình hình của xã, của tỉnh nói chung và của thế giới, đúc kết kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo. Trên tinh thần đó, tháng 10 năm 2000 Đại hội Đảng bộ xã Vĩnh Đại nhiệm kỳ (2000-2005) được tiến hành, Đại hội đã bầu Ban chấp hành gồm 7 đồng chí: Nguyễn Văn Ước - Bí thư; Phạm Văn Nhựt - Phó Bí thư; Lê Phương Tâm - Chi uỷ viên, Chủ tịch UBND; Phạm Văn Dũng - Chi uỷ viên, phó Chủ tịch UBND; Nguyễn Thành Phương - Chi uỷ viên, phó Chủ tịch HĐND; Lê Văn Phong - Chi uỷ viên, xã đội trưởng; Lưu Thanh Bình - Chi uỷ viên, trưởng công an. Đại hội đánh giá lại kết quả 5 năm với những thành tựu trên và cho rằng đến thời điểm này xã đã phát triển kinh tế - xã hội nhanh hoà chung vào tốc độ phát triển của cả nước. Với kết quả đạt được về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, ổn định chính trị tạo đà cho quá trình phát triển nhiệm kỳ kế tiếp. Nổi bật lên trong phát triển kinh tế là năng suất và chất lượng cây lúa và cây hoa màu nâng cao, kinh tế hộ gia đình được phát huy, đời sống đại bộ phận nhân dân được ổn định, trong lao động sản xuất luôn đưa ra những mô hình sản xuất mới. Văn hoá xã hội có những chuyển biến nổi bật như xây dựng xoá tre lá các điểm trường, hoàn thành 100% nhà ở cho giáo viên, tỷ lệ học sinh bỏ học đã giảm, các phong trào đền đáp nghĩa đã đạt hiệu quả cao, ngoài ra còn tổ chức thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn được ổn định, xây dựng hoàn chỉnh hệ thống ban, tổ tự quản; công tác xây dựng dân quân tự vệ luôn được đảm bảo theo tỷ lệ dân số và tuyển quân hàng năm đều đạt 100%. Đó là nhờ sự vận dụng nghị quyết của Huyện Đảng bộ vào điều kiện cụ thể, chỉ đạo phù hợp với thực tế của địa phương, phát huy tính dân chủ trong nhân dân và sức mạnh của nhân dân trong xây dựng kinh tế như ưu tiên kinh tế hộ phát triển, chuyển giao khoa học kỹ thuật đi đôi với xây dựng giao thông, thuỷ lợi... Trên cơ sở đó, Đảng bộ chỉ ra rằng trong lãnh đạo kinh tế tuy phát triển nhưng đời sống một bộ phận nhân dân còn gặp khó khăn, thiếu vốn sản xuất, trong nông nghiệp chưa tạo ra tương quan giữa trồng trọt và chăn nuôi. Đôi khi còn chú trọng phát triển kinh tế hơn lĩnh vực văn hoá, ngành y tế chưa thật sự đảm bảo việc khám và điều trị cho nhân dân vì cơ sở vật chất chưa đảm bảo. Xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá chất lượng chưa cao, công tác xoá đói giảm nghèo, quỹ bảo trợ xã hội kết quả còn thấp... từ những thành tựu và khó khăn được Đảng bộ đánh giá có cái nhìn tổng quát để có hướng chỉ đạo trong nhiệm kỳ (2000-2005).

Phát huy những thuận lợi của xã là có Đảng bộ lãnh đạo kịp thời, có kinh nghiệm trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nên việc nắm bắt và hoạch định chính sách cho xã đã phát huy được tính sáng tạo phù hợp với yêu cầu tình hình mới. Bên cạnh Đảng bộ chú ý những khó khăn xã phải đối mặt và khắc phục là địa bàn rộng, giao thông khó khăn, kinh phí xây dựng cho cơ sở vật chất còn hạn chế. Đảng bộ đưa ra mục tiêu phát triển xã Vĩnh Đại đến năm 2005 chủ yếu chú trọng thường xuyên đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế đưa nông - lâm - ngư nghiệp phát triển một cách toàn diện, phát triển nông nghiệp phải gắn với xây dựng nông thôn. Trong phát triển kinh tế phải thực sự ổn định và bền vững tạo thế cân bằng giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá - xã hội. Đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo, thường xuyên củng cố quốc phòng, an ninh. Xây dựng Đảng bộ trong sạch và vững mạnh. 

Giữ nguyên diện tích 4369 ha, năng suất bình quân đạt 7-8 tấn/ha; tổng sản lượng trên diện tích cả năm đạt 140 đến 150 nghìn tấn; sản lượng lương thực đầu người 5,5 tấn - 6 tấn/năm. Phát triển cây rau màu và xây dựng một hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp. Trong chăn nuôi phát triển 2 lần số đàn heo và vịt so với thời điểm này. 

Trong xây dựng cơ sở hạ tầng nạo vét các tuyến kinh nội đồng phục vụ tốt cho sản xuất, quy hoạch, xây dựng cơ bản toàn bộ các điểm trường, nhà ở cho giáo viên hoàn thành 100%, trục lộ kinh ngang 100%, vận động nhân dân đẩy mạnh hoàn chỉnh mạng lưới điện khí hoá nông thôn 100%, 80% nhân dân sử dụng nước sạch và bảo vệ môi trường, hệ thống cầu vỉ được xây dựng. Phát triển cây tràm, hàng năm trồng mới 10-15 nghìn cây. 

Trên lĩnh vực văn hoá, chống tái mù chữ, đưa trẻ đúng tuổi đến trường đạt 100%, hạn chế bỏ học giữa chừng 2,5%, tỷ lệ tốt nghiệp đạt 95-100%. Củng cố nhân lực cho trạm y tế, tăng cường đầu tư thuốc đáp ứng cho nhân dân, giảm trẻ suy dinh dưỡng xuống dưới 28%, thực hiện 100% chương trình y tế quốc gia, giảm tỷ lệ gia tăng dân số còn 1,5%. Phát động phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao trong quần chúng nhân dân, đến 2005 xây dựng cuộc sống mới ở tất cả các ấp, 90% gia đình đạt gia đình văn hoá. Tập trung công tác xoá đói, giảm nghèo, xoá 100% số hộ nghèo, xây dựng 10-15 căn nhà tình nghĩa, 5-10 căn nhà tình thương. Giải quyết 100% các vụ việc vi phạm pháp luật, xây dựng và huấn luyện dân quân tự vệ đạt 3,5% dân số, tuyển quân đạt 100% chỉ tiêu. 80-90% nhân dân tham gia sinh hoạt các đoàn thể. 

Công tác xây dựng Đảng phải được thực hiện trên các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức chú ý nâng cao trình độ năng lực của đảng viên đáp ứng yêu cầu cho sự phát triển thời kỳ mới, xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh. 

Năm 2003 xã Vĩnh Đại tách ra xã Vĩnh Bửu Chi uỷ xã Vĩnh Đại gồm các đồng chí sau: Nguyễn Văn Ước - Bí thư; Nguyễn Thành Phương - Phó Bí thư; Lưu Thanh Bình - Chi ủy viên, Chủ tịch UBND; Lê Văn Phong - Chi uỷ viên, phó Chủ tịch UBND; Lưu Hoàng Răng - Chi uỷ viên, xã đội trưởng.

Như vậy, Nghị quyết Đại hội chi bộ đã đưa ra mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể cho nhiệm kỳ (2000-2005), điều này đòi hỏi Đảng, chính quyền và nhân dân ra sức thi đua phấn đấu thực hiện. Nhiệm vụ trước mắt của Đảng bộ xã là tổ chức quán triệt cho các chi bộ trực thuộc, triển khai và quán triệt từ trong Đảng đến quần chúng nhân dân, căn cứ nghị quyết trên cụ thể hoá thành nghị quyết của Chi bộ cũng như nghị quyết của Hội đồng nhân dân, kế hoạch của Uỷ ban nhân dân, Mặt trận, đoàn thể để nghị quyết thực sự đi vào cuộc sống. Với những kết quả đạt được nhiệm kỳ trước và bằng kinh nghiệm thực tiễn của Đảng bộ cùng với truyền thống cách mạng của nhân dân và truyền thống đoàn kết, phát huy cao độ ý chí tự lực, tự cường, vượt mọi khó khăn, thử thách đạt thắng lợi nhiệm vụ Đảng bộ đề ra.

2. Những thành tựu đạt được của Đảng bộ xã Vĩnh Đại nhiệm kỳ (2000-2005) và tiếp tục lãnh đạo nhân dân thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ X nhiệm kỳ (2005-2010). 

Sau năm 5 thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ IX nhiệm kỳ (2000-2005), đến năm 2005, xã Vĩnh Đại đã đạt được nhiều thành quả lớn trên mọi mặt đưa cuộc sống nhân dân xoá được đói, giảm nghèo vươn lên khá và giàu, góp phần đưa nền kinh tế - xã hội của huyện phát triển nhanh.

Trong phát triển kinh tế theo cơ cấu nông - lâm - ngư nghiệp phát huy tiềm năng và thế mạnh là nông nghiệp. Tổng diện tích hàng năm gieo sạ toàn xã là 1.656 ha, vụ đông xuân, vụ hè thu hàng năm là 500 ha - 1000 ha, năng suất bình quân hàng năm đạt 8,5 - 9 tấn/ha/năm/tổng diện tích 2 vụ, tổng sản lượng lương thực đầu người đạt 9.936 tấn - 10.764 tấn, bình quân lương thực đầu người đạt từ 2.868 - 3.100 kg/người/năm. Cây rau màu được chú trọng và dành riêng diện tích thích hợp như cây dưa hấu, dưa leo và các cây rau màu khác với diện tích hàng năm trồng khoảng 20 ha các loại. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, chú trọng vấn đề chọn giống phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng của địa phương.

Về chăn nuôi, từ năm 2000 trở đi với chủ trương cung cấp nguồn thực phẩm cho bà con và còn xuất khẩu, thay đổi các mô hình chăn nuôi. Năm 2005, toàn xã có 10.000 con trăn, đàn heo 3.850 con, có 70 ao bè các loại, có 105 con dê, 70 con bò, trong đó nuôi bò theo hình thức vỗ béo lấy thịt là chủ yếu đang có xu hướng phát triển. Tuy nhiên chăn nuôi trong những năm cuối nhiệm kỳ gặp khó khăn do ảnh hưởng dịch cúm gia cầm làm thiệt hại trên 7.000 con.

Phát triển lâm nghiệp với chủ trương là bảo vệ rừng và môi trường tự nhiên. Hàng năm việc trồng mới tràm và tận dụng diện tích để trồng các loại cây phân tán. Tổng diện tích tràm toàn xã là 1.986 ha với nhiều độ tuổi khác nhau ngoài ra còn trồng hàng chục nghìn cây phân tán. 

Trong phát triển kinh tế không thể không kể đến phát triển tiểu thủ công nghiệp - thương mại - dịch vụ. Mặc dù không phải là thế mạnh của xã tuy nhiên đã góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Nổi lên các hoạt động đó là việc thành lập các cửa hàng mua bán phân bón, hàng nông sản, xay xát gạo, sửa chữa cơ khí, mộc gia dụng, những điểm mua bán hàng tiêu dùng - nước giải khát nhỏ lẻ. Các hoạt động tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ đáp ứng phần nào cho nhu cầu sản xuất, sinh hoạt và tiêu dùng hàng ngày cho nhân dân. 

Xây dựng cơ sở vật chất cho nông nghiệp - nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bởi có xây dựng và phát triển các cơ sở vật chất mới tạo lực thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống thuỷ lợi được đầu tư xây dựng và sửa chữa trên 2,5 tỷ đồng, nạo vét 10 công trình lớn nhỏ với tổng chiều dài 37 km. Xây dựng 01 trạm y tế kiên cố, 04 điểm trường với 22 phòng học, xoá trường học tre lá và bán kiên cố. Nâng cấp các tuyến đường dài 16 km với kinh phí 500 triệu đồng, xây dựng hoàn thiện 03 cầu ván, 08 cầu bê tông khoảng 400 triệu đồng đảm bảo đi lại và vận chuyển của người dân. Toàn xã đã có khoảng 70% hộ dân sử dụng điện lưới quốc gia, xây dựng 01 cụm dân cư đang đưa dân vào ở và đang xây dựng 01 tuyến dân cư. Nhiều năm qua xã có chủ trương tạo mọi điều kiện cho nhân dân vay vốn để sản xuất, trong 5 năm xã đã giải quyết cho dân vay với số tiền 15.706 triệu đồng, ngoài ra còn tạo điều kiện cho 273 hộ nghèo vay tổng số tiền 973 triệu đồng để hỗ trợ phát triển sản xuất, chăn nuôi với lãi suất thấp, từ đó đời sống nhân dân đã nâng lên một cách rõ rệt. 

Về phát triển văn hoá nổi bật lên là phát triển giáo dục, được quán triệt tinh thần của Trung ương giáo dục là quốc sách hàng đầu nên giáo dục của xã đã phát triển cả về quy mô và chất lượng. Đội ngũ giáo viên từng bước được chuẩn hoá nâng cao về trình độ, phẩm chất chính trị, đạo đức, khắc phục tình trạng thiếu giáo viên. Việc huy động học sinh ra lớp hàng năm đều đạt từ 90% - 100%, tỷ lệ học sinh khá giỏi ngày càng cao và giảm tỷ lệ bỏ học giữa chừng còn 3%. 

Chăm sóc sức khoẻ nhân dân được chú trọng hơn, mạng lưới y tế ấp được hình thành. Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ cho gia đình chính sách và các hộ nghèo luôn được quan tâm. Đội ngũ y tế nâng lên về số lượng, phấn đấu nâng lên về trình độ. Trang thiết bị y tế được trang bị đầy đủ làm tăng khả năng phục vụ sức khoẻ cho nhân dân. Việc quản lý nhà thuốc, hoạt động y tế tư nhân trên địa bàn có chuyển biến tích cực đi vào nề nếp, phát triển sự nghiệp y tế theo hướng xã hội hoá. Hàng năm có khoảng 2.500-3.000 lượt người khám chữa bệnh tặng nhiều so với những năm trước đó. Các chương trình y tế quốc gia xã đều thực hiện tốt và hiệu quả. 

Văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, thông tin tuyên truyền là nhu cầu thiết yếu cho nhân dân. Tuyên truyền các chủ trương, chích sách của Đảng và Nhà nước, cổ vũ nhân dân tích cực tham gia, chống lại các biểu hiện tiêu cực, tệ nạn xã hội có hiệu quả. Toàn xã có 3 cụm truyền thanh toàn xã đảm bảo phủ toàn bộ địa bàn dân cư. Triển khai phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao quần chúng và phong trào chống các loại văn hoá không lành mạnh, mễ tín dị đoan đã có kết quả tốt, ý thức của người dân được nâng lên. Hoạt động thông tin liên lạc ngày càng phát triển, toàn xã có 87 máy diện thoại cố định, bình quân 3 máy/100 dân, xây dựng mới 01 trạm bưu điện xã, có 98% hộ dân có phương tiện nghe nhìn, 70%-80% hộ sử dụng nước sạch. 

Công tác xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm là một trong những chương trình tỉnh quan tâm và chỉ đạo được xã thực hiện tốt. Bằng nhiều chủ trương quan trọng như tạo điều kiện giúp nhân dân vay vốn sản xuất, chăn nuôi, xây dựng các tuyến và cụm dân cư, tạo điều kiện và giải quyết việc làm cho hàng trăm lao động. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 79 hộ xuống còn 25 hộ vào năm 2004. Các đối tượng chính sách được quan tâm, từ năm 2001 đến năm 2005 đã xây dựng 15 căn nhà tình nghĩa, tổng kinh phí 278 triệu đồng cho các đối tượng chính sách khó khăn về nhà ở, xây dựng 8 căn nhà tình thương kinh phí 86 triệu đồng. Ngoài ra xã có nhiều hoạt động khác nhằm thực hiện tốt công tác xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm như xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, huy động lao động công ích. 

Tích cực xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nâng cao ý thức bảo vệ tổ quốc trong nhân dân. Công tác xây dựng và huấn luyện lực lượng dân quân tự vệ đạt 2,3% dân số, 01 trung đội dân quân cơ động sẵn sàng chiến đấu. Công tác tuyển quân hàng năm đạt 100% kế hoạch trên giao. Thường xuyên tiến hành các cuộc diễn tập, qua đó nâng cao một bước công tác phòng, chống bạo loạn, lật đổ, xử lý tình huống ngày càng tốt hơn. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc trong nhân dân được phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu từ đó góp phần tích cực trong công tác phòng chống và tố giác tội phạm tạo môi trường ổn định để phát triển kinh tế - xã hội. Toàn xã có 01 đội an ninh trật tự 05 ban tự quản, 15 tổ an ninh nhân dân, 01 đội dân phòng, 05 hộp thư tố giác tội phạm, 05 tổ đăng ký tạm trú tạm vắng, góp phần trong việc giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội. 

Hệ thống chính trị vững mạnh đã là động lực lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của xã và nhiều thành tựu quan trọng đạt được đã chứng minh việc xây dựng hệ thống chính trị xã Vĩnh Đại vững mạnh toàn diện. Trước hết Đảng bộ luôn coi trọng quần chúng và công tác quần chúng. Nổi bật và xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo nhân dân có niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Mặt trận và các đoàn thể có chuyển biến trong đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, kiện toàn tổ chức theo hướng chất lượng, phát động nhiều phong trào được nhân dân tham gia.

Hoạt động của Hội đồng nhân dân thể hiện được vai trò quyền lực nhà nước ở địa phương, thực hiện vai trò giám sát Uỷ ban nhân dân và thực hiện đúng và đủ chức năng của mình. Đảng bộ xã luôn quán triệt và xây dựng quan hệ giữa Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể. 

Uỷ ban nhân dân nhiều năm qua thể hiện được vai trò là cơ quan chấp hành và quản lý nhà nước ở địa phương, tổ chức chỉ đạo điều hành thực hiện tốt nghị quyết của Đảng, làm cho kinh tế ngày càng phát triển, đời sống xã hội của nhân dân ngày được ổn định, giữ vững quốc phòng an ninh, phát huy hiệu quả quản lý trên các mặt cải cách hành chính, thực hiện cơ chế 01 cửa. 

Đảng bộ xác định công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ đảng viên về mục tiêu lý tưởng của Đảng là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ. Các chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước cấp trên cũng như cấp mình đều được triển khai, quán triệt cho đảng viên và nhân dân nhất là Nghị quyết TW 6 lần 2 về xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Hiện Đảng bộ có 7 Chi bộ trực thuộc, chất lượng sinh hoạt được nâng lên, 85% đảng viên đạt đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ. Việc bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn đều được Đảng bộ đề cao, phát triển mỗi năm 5 đồng chí đảng viên. Đảng bộ trong nhiều năm đạt trong sạch vững mạnh từ đó là động lực lớn để lãnh đạo nhân dân phát triển cao hơn nữa, mạnh hơn nữa. 

Ngày 04 - 05 tháng 8 năm 2005, Đảng bộ xã Vĩnh Đại tiến hành đại hội lần thứ X nhiệm kỳ (2005-2010), tham dự có 31 đảng viên và đại biểu khách mời. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ xã gồm 7 đồng chí: Nguyễn Thành Phương - Bí thư; Bạch Văn Gừng - Phó Bí thư; Lưu Thanh Bình - Chi uỷ viên, Chủ tịch UBND; Lê Văn Phong - Chi uỷ viên, phó Chủ tịch UBND; Lưu Hoàng Răng - Chi uỷ viên, xã đội trưởng; Nguyễn Văn Đậm - Chi uỷ viên, trưởng công an (tháng...../2009 đ/c Võ Minh Thành thay đồng chí Đậm là trưởng công an xã); Nguyễn Văn Thảnh - Chi uỷ viên, phó Chủ nhiệm UBKT Đảng uỷ. Đây là thành công bước đầu của nhiệm kỳ với số lượng và trình độ thành viên trong Ban Chấp hành được tăng lên là cơ sở và điều kiện thuận lợi trong nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành của Đảng bộ Thông qua báo cáo về kết quả đạt được nhiệm kỳ (2000- 2005) và từ tình hình cụ thể của xã được Đảng bộ xem xét, đánh giá rất cao. Nổi bật trên lĩnh vực kinh tế với diện tích, năng suất, sản lượng cây lương thực tăng nhanh và đạt 100% nghị quyết; việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và song song phát triển lâm - ngư nghiệp, ngoài ra những nỗ lực trong phát triển các ngành tiểu thủ công nghiệp - thương mại - dịch vụ. Cơ sở vật chất về trường, trạm, trụ sở, đường giao thông, cầu cống và kênh mương được đầu tư đúng mức. Văn hoá xã hội với việc nâng cao chất lượng giáo dục, y tế nhất là chương trình xoá đói giảm nghèo đã đem lại kết quả cao, đời sống nhân dân được cải thiện. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được ổn định, hệ thống chính trị ngày càng được củng cố và hoạt động có hiệu quả hơn. Mặt khác Đảng bộ nghiêm túc, nhìn thẳng vào sự thật về những khó khăn ở các lĩnh vực. Trong lãnh đạo phát triển tuy có tăng cường nhưng chưa đồng bộ và vững chắc, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi chưa phát huy cao và đúng mức. Chưa hình thành được các mô hình kinh tế hợp tác, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ phát triển còn chậm, tỷ lệ hộ sử dụng nước sạch không đạt chỉ tiêu Nghị quyết. Đảng bộ chỉ ra nguyên nhân chủ quan và khách quan của các hạn chế: xã là vùng còn gặp khó khăn, hậu quả của lũ lụt để lại, cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ còn thiếu. Trình độ, năng lực của một số ít cán bộ đảng viên còn hạn chế so với yêu cầu, một số vấn đề trọng tâm xã chưa có nghị quyết chuyên đề để thực hiện. 

Từ đó Đảng bộ xã đưa ra phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ (2005-2010) và những biện pháp thực hiện với mục tiêu chung là đẩy mạnh phát triển nông - lâm - ngư nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, từng bước phát triển tiểu thủ công nghiệp - thương mại - dịch vụ, gắn liền với phát triển văn hoá, xã hội cải thiện nâng cao đời sống của nhân dân. Tăng cường củng cố ninh quốc phòng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Phấn đấu đạt các chỉ tiêu đến năm 2010: 

- Tổng diện tích gieo trồng lúa cả năm 1.700 ha, tổng sản lượng lương thực 11.050 tấn/ha 

- Thu nhập bình quân đầu người hàng năm 15 triệu - Tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên là 1,3% 

- Tỷ lệ suy dinh dưỡng 18% 

- Tỷ lệ hộ nghèo là giảm còn 5% 

- Tỷ lệ học sinh ra lớp đạt 100%, giảm tỷ lệ học sinh bỏ học giữa chừng là 2% 

- Tỷ lệ hộ sử dụng điện 90%, 80% hộ sử dụng nước sạch; 

- 7 máy điện thoại/100 dân 

- Đến năm 2010 xã đạt xã văn hoá, 

- Phát triển đảng viên từ 13-15 đồng chí, đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đạt 15%. Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh. 

Song song với những chỉ tiêu Nghị quyết Đảng bộ đưa ra là những giải pháp cụ thể hoá thành nhiệm vụ triển khai thực hiện. Lãnh đạo sản xuất nông nghiệp ngoài việc thâm canh, tăng năng suất, chất lượng thì cần quy hoạch vùng trọng điểm chuyên canh lúa cao sản, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ thu hoạch và sau thu hoạch. Xây dựng cơ sở vật chất điện, trường học, trạm, cầu, hệ thống thuỷ lợi và xây dựng chợ tạo điều kiện cho các cơ sở kinh doanh hoạt động. Phát triển văn hoá, xã hội như đẩy nhanh các ngành giáo dục, y tế, thông tin tuyên truyền Chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục ngang tầm với nhiệm vụ mới, mở rộng cơ sở vật chất nâng cao chất lượng dạy và học. Mở rộng mạng lưới y tế xuống ấp, đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình. Thực hiện có chất lượng cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, khảo sát nắm lại các hộ nghèo, xây dựng dự án vay vốn xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm. Giữ gìn an ninh quốc phòng phải xây dựng thế trận an ninh nhân dân gắn với quốc phòng toàn dân, phát huy tác dụng công tác phòng ngừa, đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh. Nâng cao vai trò hệ thống chính trị, đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị, đổi mới công tác vận động quần chúng, nâng cao trình độ cán bộ, đảng viên, đổi mới có chất lượng hoạt động chính quyền, mặt trận và các đoàn thể... Với những biện pháp thực hiện nhiệm vụ, Đảng bộ đưa nghị quyết vào cuộc sống và được nhân dân đón nhận, tin tưởng và ra sức thi đua thực hiện thắng lợi nghị quyết. 

3. Thành tựu bước đầu đạt được đang tạo đà hoàn thành nhiệm vụ và vững chắc vào năm 2010

Năm 2009, chỉ còn một năm nữa là kết thúc nhiệm kỳ (2005-2010) tốc độ phát triển kinh tế của xã đang phát triển nhanh, đời sống nhân dân đã tăng lên một bước cao. Hàng năm, Đảng bộ đều có sơ, tổng kết đánh giá theo từng chỉ tiêu, định hướng và có chỉ đạo kịp thời nên phát huy hiệu quả trong phát triển kinh tế - xã hội. Những kết quả đạt được năm sau cao hơn năm trước, năm 2008, tổng diện tích gieo sạ cây lúa nước 2.284 ha, tổng sản lượng lương thực là 11.834 tấn. Đến năm 2009, tổng diện tích gieo sạ là 2.800 ha, năng suất vụ đông xuân là 6 tấn/ha và sản lượng đạt 9.000 tấn. Lợi nhuận của vụ đông xuân năm 2008, 2009 là 17 tỷ đồng tăng cao hơn vụ đông xuân các năm 2006, 2007 từ 5-6 tỷ đồng. Sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng đã chuyển biến rõ rệt và mang kết quả cao. Năm 2008, tổng diện tích cây hoa màu là 20 ha trong đó có 18 ha là dưa hấu, năng suất 15 tấn/ha, tổng sản lượng thu hoạch 270 tấn. Ngoài ra còn trồng các loại cây rau màu khác như dưa leo, bầu bí... Toàn xã đã thực hiện cơ khí hoá nông nghiệp và áp dựng khoa học tiên tiến vào sản xuất giảm chi phí trong sản xuất, giảm tổn thất sau thu hoạch mang lại kết quả kinh tế cao. 

Công tác chăn nuôi ổn định, số lượng các con đều tăng và có biện pháp phòng ngừa bệnh nên tránh thiệt hại lớn, năm 2008 tổng đàn gia súc có 1.644 con, gia cầm 9.637 con, có 60 ao nuôi cá các loại. 

Do tình hình cây tràm giá cả không ổn định nên nhân dân chuyển một số diện tích tràm sang trồng lúa nên đến nay diện tích tràm có giảm còn 1.602,7 ha. 

Tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ được chú trọng và tăng trưởng nhanh. Năm 2009, toàn xã có 51 hộ sản xuất kinh doanh buôn bán nhỏ lẻ đặc biệt 5 cơ sở sửa máy, 2 đại lý xăng dầu, 4 đại lý phân bón, thuốc trừ sâu đáp ứng nhu cầu phục vụ cho sản xuất và đời sống nhân dân đưa kinh tế xã phát triển nhanh. Xây dựng cơ bản được tăng cường, hàng năm đều có nguồn vốn của tỉnh, huyện, xã và huy động từ nhân dân cho các công trình. Công trình cụm, tuyến dân cư được hoàn thành đưa nhân dân vào ở nhằm cải thiện đời sống người dân. Phổ cập Trung học cơ sở được hoàn thành, xây dựng chương trình “xã hội học tập trên địa bàn xã”. Y tế được đáp ứng cho công tác khám và điều trị bệnh cho người dân, giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng còn 16,7% vượt sớm chỉ tiêu nghị quyết. Phong trào văn hoá, văn nghệ được thực hiện tốt đặc biệt đã có 5/5 ấp đạt ấp tiên tiến và 4/5 ấp xét tặng ấp văn hoá tạo điều kiện phấn đấu năm 2010 đạt xã văn hoá. An ninh trật tự trên địa bàn được giữ vững, giải quyết các vụ việc xảy ra, hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc phòng... 

Mười bốn năm (1996-2009) đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đây là giai đoạn có sự phát triển nổi bật nhất, kinh tế - xã hội có sự tăng trưởng nhanh nhất. Đảng bộ xã đã chủ động, sáng tạo hoạch định chính sách cho địa phương mình trên cơ sở chỉ đạo của cấp trên bằng các chỉ tiêu, nghị quyết và biện pháp thực hiện được phát huy hiệu quả cao. Đến năm 2009, bộ mặt của xã thay đổi khang trang hơn, đời sống nhân dân đã giàu lên nhanh chóng. Chỉ tính sau 3 năm thực hiện nghị quyết Đảng bộ xã nhiệm kỳ (2005- 2010) đã cho thấy các chỉ tiêu kinh tế - xã hội đều đạt và vượt, cụ thể chỉ tiêu năm 2010 tổng diện tích gieo sạ là 1.700 ha nhưng đến năm 2009 là 2.800 ha; chỉ tiêu về giáo dục và y tế đạt và vượt. Tuy nhiên còn nhiều hạn chế về mặt chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, vấn đề nước sạch, điện sáng, đưa dân vào tuyến, cụm dân cư... cần phải được Đảng bộ quan tâm chỉ đạo thực hiện và phấn đấu cao hoàn thành chỉ tiêu. 

Như vậy, sau hơn 34 năm xây dựng và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa (1975-2009), xã Vĩnh Đại đã đạt được thành quả lớn, thể hiện rõ nhất tốc độ phát triển kinh tế ở 10 năm gần đây (2000-2009) khi đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Một chặng đường phát triển dài trải qua nhiều nhiệm kỳ đại hội và được thể hiện rõ nhất 3 giai đoạn lớn, giai đoạn 10 năm khắc phục hậu quả chiến tranh (1975-1985), giai đoạn tiến hành đổi mới toàn diện (1986-1996) và giai đoạn đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội từ năm 1996 đến nay. Bộ mặt của xã được thay đổi từng ngày, nay đã khang trang hơn, đẹp đẽ hơn, nhân dân đã có cuộc sống ấm no, hạnh phúc trên chính mảnh đất thân thương của mình. 

Thành tựu đó một lần nữa khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng bộ xã, được rèn luyện thử thách qua những năm tháng chiến tranh và nay được tiếp tục bước vào công cuộc xây dựng xã hội của nghĩa. Những năm sau chiến tranh với những bộn bề khó khăn, tổ chức Đảng còn mỏng nhưng Đảng bộ đã biết phát huy sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, ra sức tập trung ổn định sản xuất và đời sống, giữ vững chính quyền cách mạng. Vận dụng đường lối đổi mới vào điều kiện thực tế của địa phương ưu tiên phát triển lương thực với việc huy động đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, thâm canh tăng vụ, tăng diện tích và xây dựng hệ thống thuỷ lợi phục vụ cho nông nghiệp. Mười năm sau đó tốc độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh song song Đảng bộ được không ngừng củng cố lớn mạnh, bảo vệ tổ quốc chống mọi âm mưu diễn biến hoà bình của địch. Trong quá trình lãnh đạo có những lúc không tránh khỏi những khó khăn và vướng mắc Đảng bộ đã phải vượt qua. Sau ngày giải phóng mọi cơ sở vật chất bị tàn phá, nhân dân đa số còn nghèo đói, mù chữ, tình hình hết sức khó khăn, hơn nữa chiến tranh biên giới Tây Nam xảy ra ảnh hưởng đến anh ninh chính trị và tư tưởng người dân nhưng Chi bộ Đảng lúc đó đã vượt qua, ra sức nỗ lực phấn đấu lãnh đạo nhân dân vừa lao động sản xuất vừa làm nghĩa vụ đối với đất nước. Cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp đã không phát huy được tiềm năng và thế mạnh của xã, khi chuyển sang kinh tế thị trường theo sự quản lý nhà nước phải mất một thời gian thực hiện mới đi vào có nề nếp. Quá trình lãnh đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế đạt nhiều thành tựu nhưng cũng đối mặt với những khó khăn thách thức như giá cả không ổn định, thiên tai xảy ra, áp dụng khoa học kỹ thuật chưa tốt, nhân dân thiếu vốn sản xuất... nhưng Đảng bộ luôn tiếp thu chỉ đạo của trên, phát huy tính sáng tạo, sức chiến đấu trong Đảng, và hoạch định chính sách kinh tế - xã hội cho địa phương một cách đúng đắn kịp thời. Đây là điều kiện quyết định tạo nên thành công trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội của địa phương. 

Hơn nữa, Đảng bộ luôn xây dựng khối đại đoàn kết trong nhân dân, phát huy năng lực sáng tạo của nhân dân trong lao động sản xuất, thực hiện quy chế dân chủ trong xây dựng kinh tế - xã hội cũng như trong xây dựng Đảng, chính quyền, “lấy dân làm gốc” giúp Đảng bộ xã Vĩnh Đại lãnh đạo tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương. 

 

KẾT LUẬN

 

Trải qua những năm dài lịch sử từ mảnh đất Láng Sen và Vàm Gừa nhỏ bé với số dân ít ỏi, mấy chục hộ gia đình khai hoang lập nghiệp. Ngày nay, đã trở thành một trong những xã phát triển mạnh về nông nghiệp. Từ những cánh đồng hoang vu, cỏ dại, năn, bàng, lác, lau sậy, rừng tràm bạt ngàn bao phủ, nay xã Vĩnh Đại đã xây dựng thành những điểm dân cư chính có quy hoạch đường liên xã, liên huyện có các công trình công cộng và các công trình trạm y tế, trường học, nhà thông tin văn hoá. Những ruộng lúa tốt tươi xanh trĩu hạt hứa hẹn những mùa bội thu, xã đang chuyển mình đi lên mô hình của làng quê xã hội chủ nghĩa. 

Có được ngày nay, mãi mãi nhân dân không bao giờ quên được những năm tháng hào hùng gian khổ mà vinh quang của những lớp người Vĩnh Đại đi trước. Từ những chiến sĩ du kích bám trụ kiên cường đến nông dân với vũ khí thô sơ, đánh địch bảo vệ quê hương. Vĩnh Đại là trong những nơi che giấu cán bộ lãnh đạo nằm vùng trụ lại để lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống lại âm mưu thủ đoạn của địch như: tố cộng, diệt cộng, trong những năm đen tối địch khủng bố ác liệt, chà đi sát lại, quân và dân Vĩnh Đại vẫn một lòng đoàn kết đấu tranh với địch bảo vệ Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ cán bộ lãnh đạo trong kháng chiến và sau 35 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay.  

Nghị quyết 15 của Đảng ra đời cho phép cầm vũ khí đánh địch cán bộ nhân dân Mộc Hoá nói chung và nhân dân Vĩnh Đại nói riêng vô cùng phấn khởi, như nắng hạn lâu ngày gặp mưa rào khí thế cách mạng bùng lên khắp các vùng nông thôn. 

Với phương châm địch quyết làm, ta quyết phá, dưới lãnh đạo của huyện ủy Mộc Hóa, Chi bộ các xã đã bí mật thường xuyên theo sát lãnh đạo nhân dân đấu tranh. Cả một bức tranh rộng lớn vẻ vang về những ngày đánh địch, những cuộc đấu tranh chính trị của các mẹ, các chị lên Mộc Hoá làm cho kẻ thù khiếp sợ, những ngày toàn dân trong xã, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng đứng lên đấu tranh ác liệt diệt ác, phá kìm xây dựng ấp chiến đấu. Những trận đánh ác liệt ngay trên địa bàn Vĩnh Đại có sự phối hợp giữa du kích và lực lượng vũ trang tỉnh mãi mãi còn ghi. Và quên sao được những ngày chi bộ xã, đội du kích xã và một số bà con kiên cường bám đất, bám quê chống lại những đợt càn quét gom dân của địch, bao nhiêu người trong số họ đã ngã xuống vì cuộc sống của bà con Vĩnh Đại ngày nay, mãi mãi các thế hệ sau không bao giờ quên họ. 

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, quân và dân Vĩnh Đại trở về mảnh đất bỏ hoang bắt tay vào xây dựng quê hương, từ một vùng đất sình lầy, đầy lau sậy, cỏ hoang, năn, lác, bàng. nhưng Chi bộ và chính quyền cùng nhân dân khắc phục mọi gian lao quên mình vì công việc vận động hướng dẫn bà con sản xuất, đoàn kết một lòng, tích cực khắc phục hậu quả chiến tranh từng bước ổn định đời sống, củng cố Đảng bộ, chính quyền cùng các đoàn thể cách trên cơ sở đó phát triển sản xuất, xây dựng quê hương. 

Từ những thực tiễn đó toàn Đảng, toàn dân xã Vĩnh Đại đã vượt qua mọi khó khăn thử thách đưa kinh tế xã nhà ngày càng vươn lên từ cây lúa một vụ được chuyển sang cây lúa hai vụ. Khoa học kỹ thuật được đưa đến nông dẫn áp dụng vào đồng ruộng nhằm nâng cao năng suất sản xuất. Năng suất năm sau cao hơn năm trước, đời sống nhân dân ngày càng được nâng lên, nhiều công trình được xây dựng trên địa bàn xã, Trạm y tế được xây dựng kiên cố phục vụ cho nhân dân, trường học xây dựng kiên cố, khang trang, phòng học đảm bảo cho học sinh cắp sách đến trường, nhiều kênh rạch nay được đào mới từ nguồn vốn Nhà nước và nhân dân cùng làm. 

Hệ thống chính trị ngày càng củng cố, phát triển từng bước vững mạnh, cơ sở Đảng từ 3 đảng viên nay có 48 đảng viên, 8 chi bộ Đảng hệ thống chính quyền từ xã xuống ấp. Các đoàn thể vững mạnh từ mấy chục hội viên nay có hơn 2000 hội viên, phát huy tốt tác dụng trong các phong trào quần chúng. Mạng lưới an ninh, quốc phòng thường xuyên được phát triển và củng cố, công tác an ninh trật tự trên địa bàn xã được đảm bảo. Lộ giao thông nông thôn được hình thành, cầu khỉ được thay thế bằng cầu bê tông cót thép, phong trào thể dục thể thao được phát triển mạnh, góp phần làm cho sự khởi sắc của xã nhà trong giai đoạn khôi phục xây dựng quê hương. 

Ngày càng xuất hiện nhiều nông dân điển hình tiên tiến, nhiều nông dân sản xuất giỏi được tỉnh, huyện khen thưởng, có nhiều mô hình chăn nuôi, sản xuất được phát triển mang lại hiệu quả kinh tế cao. Bên cạnh đó thế mạnh cây tràm ở xã cũng được phát huy nhiều hécta tràm được trồng mới, tiềm năng kinh tế cây tràm lại cao, nhiều ngôi nhà ngói mới được mọc lên, phương tiện thông tin về đến tận các ấp. Nhân dân trong xã đều nghe được mọi thông tin của Đảng và Nhà nước từ Đài tiếng nói Việt Nam, đài tỉnh, đài truyền thanh của huyện. Đời sống nhân dân vững niềm tin vào Đảng để cùng Đảng góp phần xây dựng đất nước thực hiện mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Thành tựu đó là công lao chung của toàn Đảng và nhân dân xã Vĩnh Đại, chỉ sau những năm khôi phục lại hậu quả của chiến tranh giá trị sản xuất bình quân lương thực đầu người tăng gấp đôi, một con số không phải là nhỏ. Trên mặt trận, an ninh quốc phòng được giữ vững, kinh tế ngày càng cao, nông thôn ngày càng có nhiều đổi mới rõ nét. 

Xã Vĩnh Đại đang đẩy mạnh phong trào xoá đói, giảm nghèo và toàn dân xây dựng đời sống văn hóa, diện tích gieo trồng lúa cả năm 1.700 ha, thu nhập bình quân đầu người 15 triệu/năm, hộ nghèo giảm còn 5%, hộ sử dụng điện 90%, và 80% hộ sử dụng nước sạch, 7 máy điện thoại/100 dân, phấn đấu đến năm 2010 xã đạt xã văn hoá, Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh. Giáo dục ngày càng được quan tâm xã có trường Trung học cơ sở Vĩnh Đại có 08 khối lớp từ lớp 6 đến lớp 9, có 252 học sinh. Trường Tiểu học Vĩnh Đại có 21 lớp (04 lớp mẫu giáo và 17 lớp tiểu học), với 486 học sinh, 100% học sinh ra lớp. Trường lớp được Đảng, Nhà nước đầu tư xây dựng khang trang, các thiết bị dạy và học được trang bị đầy đủ, nhất là đội ngũ giáo viên được nâng cao về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, áp dụng công nghệ thông tin vào công tác giảng dạy ngày càng nâng cao chất lượng giáo dục. 

Công tác đền ơn đáp nghĩa xã thường xuyên thực hiện chính sách đối với các gia đình liệt sĩ, thương binh có công với cách mạng. Cuộc vận động xây dựng nếp sống văn hoá ngày đi vào chiều sâu rộng trong quần chúng nhân dân xã, các gia đình có phương tiện nghe nhìn tivi, cassette. 

Đạt những thành tựu nói trên, trước hết là do Đảng bộ đã cụ thể hóa sát đúng các nghị quyết của cấp trên phù hợp với tình hình thực tế của xã nhà và bằng những nghị quyết của chi bộ cụ thể, đề ra những giải pháp thực hiện trong từng năm. Trong lãnh đạo điều hành đã có những phương pháp sáng tạo và khoa học cho từng nhiệm vụ cụ thể. Phong cách lãnh đạo sâu sát, biết lắng nghe ý kiến của nhân dân, từ đó tạo sự đoàn kết nhất trí cao từ Đảng đến nhân dân. Bài học kinh nghiệm này cần được phát huy hơn nữa trong công cuộc xây dựng đất nước trước thềm thiên niên kỷ mới và trong công cuộc xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn nâng cao hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. 

Tuy nhiên đời sống kinh tế tại địa phương cũng còn không ít khó khăn, giao thông chỉ được đi lại thuận tiện trong mùa khô, còn mùa mưa lũ vẫn phải đi lại bằng xuồng ghe là chủ yếu, kinh tế có phát triển nhưng còn chậm, chuyển đổi giống, cầy trồng vật nuôi chưa mạnh mẽ và bền vững, cây tràm trước đây là cây kinh tế cao nhưng nay trượt giá, nhân dân phải phá bỏ để chuyển sang làm lúa theo kinh tế thị trường. Cơ sở hạ tầng, vốn cho sản xuất, vốn tri thức cho cán bộ lãnh đạo cán bộ quản lý ở địa phương phải ngang tầm với nhiệm vụ đặt ra để tăng tốc phát triển, phát huy tiềm năng sẵn có ở Vĩnh Đại. Cần có chiến lược đầu tư thúc đẩy hơn nữa để phát triển nhanh, mạnh và bền vững hơn và trong thời gian tới để bắt kịp đà phát triển của cả huyện đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 

Lịch sử xã Vĩnh Đại là lịch sử một địa phương, một miền đất, một thế hệ những người anh hùng, lịch sử xã sẽ góp phần thêm cho lịch sử Đảng bộ huyện Tân Hưng rạng rỡ. 

Bước sang thế kỷ mới, với kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền xã, với ý chí vươn lên, vượt qua nhiều thử thách, phát huy truyền thống anh hùng trong hai cuộc kháng chiến và bảo vệ Tổ quốc, kiên quyết phấn đấu thực hiện tốt những mục tiêu phát triển được đề ra. Chắc chắn rồi đây, sự nghiệp này của lớp con cháu được sinh ra và lớn lên mà không nghe thấy tiếng súng. Thế hệ ấy sẽ quí trọng cuộc sống và yêu thương quê hương của mình hơn khi biết những trang sử hào hùng và biết được mỗi tấc đất quê hương đều có phần xương máu của ông cha ta. Do đó, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Đại không ngừng rèn luyện và xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, tính chiến đấu cao để có thể đi trước đón đầu thời cơ và giải quyết khó khăn đưa Vĩnh Đại phát triển mạnh hơn và vững chắc hơn. 

Năm 2009, kỷ niệm 40 năm thực hiện di chúc của Bác Hồ (1969-2009), Đảng bộ và nhân dân xã Vĩnh Đại luôn luôn thực hiện lời dạy thiêng liêng của Người xây dựng xã phát triển giàu mạnh hơn góp phần vào sự phát triển chung của toàn huyện, tỉnh. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội không dừng lại ở đó mà còn tiếp tục dài hơn nữa, nhiều hơn nữa phải đối mặt với nhiều thời cơ và nhiều thách thức đòi hỏi Đảng bộ xã Vĩnh Đại phải nỗ lực không ngừng, phấn đấu không ngừng lãnh đạo đưa xã phát triển nhanh, mạnh và bền vững.

image advertisement

image advertisement

image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
THỐNG KÊ TRUY CẬP
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tháng: 1
  • Tất cả: 1
Thư viện ảnh